Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 07/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUẢNG HÒA, TỈNH CAO BẰNG

BẢN ÁN 07/2023/HS-ST NGÀY 26/04/2023 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 4 năm 2022 Tòa án nhân dân huyện Quảng Hòa mở phiên tòa trực tuyến xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 10/2023/TLST- HS ngày 28/3/2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 12/2023/HSST- QĐTA ngày 13/4/2023 tại điểm cầu trung tâm – Phòng xét xử Tòa án nhân dân huyện Quảng Hòa và điểm cầu thành phần – Nhà giam giữ Công an huyện Quảng Hòa, tỉnh C đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Thị H - sinh năm 1975.

Số CCCD: 004175007xxx, cấp ngày 08/6/2022, nơi cấp: Cục Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội - Bộ Công an.

Nơi cư trú: Tổ dân phố T, thị trấn L, huyện Q, tỉnh C.

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Thiên chúa giáo; Nghề nghiệp: Không nghề; Trình độ học vấn: 9/12;

Tiền án: Có 01 tiền án, ngày 28/3/2012 bị Tòa án nhân dân huyện Phục Hòa (nay là huyện Quảng Hòa), tỉnh C xử phạt 10 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy, theo quy định tại điểm h, p, khoản 2, Điều 194 của Bộ luật hình sự năm 1999.

Tiền sự: Không Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 26/10/2022, hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Quảng Hòa đến nay, có mặt tại phiên toà.

2. Triệu Văn S - sinh năm 1983.

Số CCCD: 004083007xxx, cấp ngày 24/7/2022, nơi cấp: Cục Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội - Bộ Công an.

Nơi cư trú: xóm A, xã T, huyện Q, tỉnh C.

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Nùng; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Không nghề; Trình độ học vấn: 10/12;

Tiền án: Có 02 tiền án, ngày 27/9/2012 bị Tòa án nhân dân tỉnh C xử phạt 08 năm tù về tội "Vận chuyển trái phép chất ma túy" theo quy định tại đ, ng khoản 2, Điều 194 của Bộ luật hình sự năm 1999; Ngày 27/4/2021 bị Tòa án nhân dân huyện Quảng Hòa, tỉnh C xử phạt 16 tháng tù về tội "Trộm cắp tài sản" theo quy định tại điểm a, khoản 1, Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Tiền sự: Không Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 26/10/2022, hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Quảng Hòa đến nay, có mặt tại phiên toà.

3. Nguyễn Cao C - sinh năm 1988 Số CCCD: 004088008xxx, cấp ngày 12/8/2022, nơi cấp: Cục Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội - Bộ Công an.

Nơi cư trú: Tổ dân phố T, thị trấn L, huyện Q, tỉnh C.

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Không nghề; Trình độ học vấn: 12/12;

Tiền án: có 01 tiền án, ngày 28/8/2020 bị Tòa án nhân dân huyện Quảng Hòa, tỉnh C xử phạt 12 tháng tù về tội "Trộm cắp tài sản" theo quy định tại khoản 1, Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Tiền sự: Không Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 26/10/2022, hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Quảng Hòa đến nay, có mặt tại phiên toà.

- Người làm chứng:

1. Nguyễn Văn H1 - sinh năm 1992 Nơi cư trú: Tổ dân phố P, thị trấn L, huyện Q, tỉnh C.

2. Mã Đình T1 - sinh năm 1992 Nơi cư trú: xóm C, xã N, huyện Q, tỉnh C.

3. Nông Thị Thu H2 - sinh năm 1977 Nơi cư trú: Tổ dân phố T, thị trấn L, huyện Q, tỉnh C.

4. Thạch Văn S - sinh năm 1986 Nơi cư trú: xóm C, xã S, huyện Q, tỉnh C.

5. Hoàng Văn C - sinh năm 1976 Nơi cư trú: Tổ dân phố P, thị trấn L, huyện Q, tỉnh C.

6. Lý Văn T2 - sinh năm 1994 Nơi cư trú: Tổ dân phố P, thị trấn L, huyện Q, tỉnh C.

7. Lý Văn H3 - sinh năm 1985 Nơi cư trú: Tổ dân phố P, thị trấn L, huyện Q, tỉnh C.

8. Nguyễn Văn T3 - sinh năm 1990 Nơi cư trú: xóm L, xã C, huyện Q, tỉnh C.

9. Hoàng Văn T4 - sinh năm 1970 Nơi cư trú: Tổ dân phố Đ, thị trấn L, huyện Quảng Hòa, tỉnh C.

10. Đàm Văn A - sinh năm 1991 Nơi cư trú: xóm M, xã Đ, huyện Q, tỉnh C.

Tất cả những người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 08 giờ 05 phút ngày 26/10/2022 Tổ công tác Công an huyện Quảng Hòa phối hợp với Trạm kiểm soát biên phòng Cửa khẩu quốc tế T, huyện Quảng Hòa làm nhiệm vụ tuần tra kiểm soát tại khu vực đường thuộc Tổ dân phố Tân Thịnh, thị trấn T thì phát hiện Nguyễn Văn H1 đang có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Vật chứng thu giữ: 01 bơm kim tiêm đã qua sử dụng và một mảnh giấy bạc màu trắng. Tổ công tác đã lập biên bản sự việc và đưa H1 về trụ sở để làm việc. H1 khai nhận số ma túy vừa sử dụng có nguồn gốc là vào khoảng 07 giờ ngày 26/10/2022 được dì ruột Nguyễn Thị H nhà ở Tổ dân phố Tân Thịnh đưa cho 02 gói, H1 đem ra bụi cây ven đường để sử dụng bằng hình thức chích thì bị cơ quan chức năng phát hiện lập biên bản sự việc.

Căn cứ vào lời khai của Nguyễn Văn H1, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Quảng Hòa tiến hành khám xét khẩn cấp người và nơi ở đối với Nguyễn Thị H tại Tổ dân phố Tân Thịnh, thị trấn T vào hồi 12 giờ 08 phút cùng ngày. Kết quả: Nguyễn Thị H tự nguyện giao nộp 01 gói được bọc bằng giấy mềm màu trắng bên trong có 13 gói nhỏ có chứa chất bột màu trắng nghi là ma túy, loại Heroine; 01 gói nilon trong suốt có hàn nhiệt bên trong có 02 cục chất rắn tinh thể màu trong suốt, nghi là ma túy dạng đá và 2.870.000 đồng tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam.

Khoảng 10 giờ ngày 26/10/2022 Công an thị trấn T chủ trì phối hợp với Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về hình sự-ma túy- kinh tế của Công an huyện Quảng Hòa và Trạm kiểm soát biên phòng Cửa khẩu quốc tế T, huyện Quảng Hòa làm nhiệm vụ tuần tra kiểm soát tại khu vực thuộc Tổ dân phố Hưng Long, thị trấn T thì phát hiện Mã Đình T1 đang có hành vi sử dụng trái ma túy. Vật chứng thu giữ: 01 bơm kim tiêm đã qua sử dụng và một phép chát mảnh giấy bạc màu trắng. Tổ công tác đã lập biên bản sự việc và đưa Thoan về trụ sở để làm việc. T1 khai nhận nguồn gốc số ma túy vừa sử dụng xong được mua với Nguyễn Cao C với số tiền 300.000 đồng.

Căn cứ vào lời khai của Mã Đình T1, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Quảng Hòa tiến hành khám xét khẩn cấp người và nơi ở đối với Nguyễn Cao C tại Tổ dân phố Tân Thịnh, thị trấn T vào hồi 11 giờ 15 phút cùng ngày. Kết quả thu giữ: 01 gói giấy màu trắng bên trong có 09 gói nhỏ chất bột màu trắng nghi là ma túy.

Khoảng 10 giờ 45 phút ngày 26/10/2022, Tổ công tác Chi cục Hải quan Cửa khẩu T chủ trì phối hợp với Đồn biên phòng Cửa khẩu quốc tế T và Công an huyện Quảng Hòa thực hiện nhiệm vụ tuần tra kiểm soát tại Tổ dân phố Tân Thịnh, thị trấn T thì phát hiện và bắt quả tang Triệu Văn S có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Vật chứng thu giữ: 01 hộp nhựa có dán băng dính màu đen, nắp màu xanh có kích thước 2 x 4cm. Bên trong hộp nhựa có 03 gói giấy bạc màu trắng đều chứa chất bột màu trắng (nghi là ma túy loại Heroine); 01 điện thoại di động nhãn hiệu VIVO, màn hình cảm ứng mặt sau màu đỏ và 370.000 đồng tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam. Vào hồi 11 giờ 45 phút cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Quảng Hòa tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Triệu Văn S tại trong sân trước hiên nhà của Nguyễn Thị H tại Tổ dân phố Tân Thịnh, thị trấn T. Kết quả thu giữ:

02 gói giấy bạc màu trắng bên trong chứa chất bột màu trắng (nghi là ma túy).

Ngày 26/10/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Quảng Hòa phối hợp với các cơ quan chức năng và trước sự chứng kiến của Nguyễn Thị H, Triệu Văn S, Nguyễn Cao C để tiến hành cân xác định khối lượng vật chứng nghi là ma túy, loại Heroine thu giữ của Nguyễn Thị H có khối lượng là: 0,250 gam; 02 cục chất rắn dạng tinh thể trong suốt có khối lượng: 0,201gam; khối lượng vật chứng nghi là ma túy, loại Heroine thu giữ của Nguyễn Cao C có khối lượng là: 0,193 gam; khối lượng vật chứng nghi là ma túy, loại Heroine khi bắt của Triệu Văn S có khối lượng: 0,048 gam; vật chứng thu giữ khi khám xét của Triệu Văn S có khối lượng: 0,037 gam. Tổng khối lượng vật chứng thu giữ của Triệu Văn S là: 0,085 gam. Đồng thời niêm phong để gửi trưng cầu giám định.

Tại bản Kết luận giám định số: 332/KL-KTHS ngày 27/10/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh C kết luận: “02 (hai) mẫu chất bột màu trắng bên trong 02 (hai) phong bì niêm phong gửi giám định là ma túy, loại: Heroine”.

Tại bản kết luận giám định số: 352/KL-KTHS ngày 03/11/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh C kết luận: “Mẫu chất bột màu trắng trong phong bì niêm phong gửi giám định là ma túy, loại: Heroine; mẫu chất tinh thể màu trắng bên trong phong bì niêm phong gửi giám định là ma túy, loại: Methamphetamine”.

Tại bản kết luận giám định số: 371/KL-KTHS ngày 03/11/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh C kết luận: “Mẫu chất bột màu trắng trong phong bì niêm phong gửi giám định là ma túy, loại: Heroine”.

Quá trình điều tra bị cáo Nguyễn Thị H khai nhận: Khoảng gần 08 giờ ngày 26/10/2022 H đi bộ từ nhà ở của mình đến khu vực nhà hoang thuộc Tổ dân phố Tân Thịnh, thị trấn T để tìm mua ma túy về sử dụng cho bản thân và bán kiếm lời. Khi đến nơi, H gặp một người đàn ông khoảng 50 tuổi, không biết họ tên, địa chỉ, có nhiều biểu hiện giống người nghiện chất ma túy nên H tiến đến và hỏi “anh có thuốc không? Lấy cho em hai triệu” người đàn ông trả lời “ừ”, thấy vậy H đưa cho người đàn ông số tiền 2.000.000 đồng gồm nhiều tờ tiền mệnh giá khác nhau. Người đó nhận tiền và lấy từ trong người ra đưa cho H 01 gói ma túy gói bằng nilon màu trắng. H nhận lấy gói ma túy rồi đi về nhà tách lấy một ít để sử dụng cho bản thân bằng hình thức chích, sau đó H chia số ma túy còn lại ra thành 35 gói ma túy gói bằng giấy bạc màu trắng. Khi vừa gói thì có Nguyễn Văn H1 (là cháu của H) nhìn thấy và xin H ma túy để sử dụng thì H đồng ý đưa cho H1 02 gói ma túy và nói “tao đưa cho mày chơi thì mày phải làm việc nhà cho tao”. H1 đồng ý rồi cầm 02 gói ma túy đi luôn. Đến khoảng hơn 08 giờ cùng ngày, tại nhà ở của mình H đưa cho Nguyễn Cao C và Triệu Văn S mỗi người 10 gói ma túy, loại Heroine nhằm mục đích để C và S bán hộ, H thỏa thuận trả công bằng ma túy để C, S sử dụng, khi bán hết C, S sẽ phải đưa cho H mỗi người là 800.000 đồng. Đến khoảng 12 giờ 08 phút cùng ngày, khi H đang ở nhà của mình tại Tổ dân phố Tân Thịnh, thị trấn T, huyện Quảng Hòa thì bị lực lượng chức năng tiến hành khám xét khẩn cấp người và nơi ở của H. Quá trình khám xét H đã tự nguyện giao nộp số ma túy còn lại và số tiền 2.870.000 đồng.

Trước đó, Nguyễn Thị H đã nhiều lần đưa ma túy cho C và S mang đi bán cho những người nghiện nhiều lần, cụ thể bao nhiêu lần H không nhớ, mỗi lần đưa cho C và S là 10 gói ma túy. Khi bán hết số ma túy H đưa thì C và S sẽ phải đưa lại cho H mỗi người là 800.000 đồng. Tuy nhiên, C và S thường sinh hoạt ăn uống tại nhà H nên có lần đưa đủ số tiền 800.000 đồng nhưng có lần đưa không đưa đủ số tiền nêu trên như đã thỏa thuận. Cụ thể H đã nhận từ C và S bao nhiêu lần tiền và tổng số tiền bao nhiêu H cũng không nhớ.

Ngoài ra, H còn trực tiếp bán trái phép chất ma túy nhiều lần, cho nhiều người nghiện khác nhau. Hình thức giao dịch là những người nghiện trực tiếp đến nhà gặp H để hỏi mua ma túy và đưa tiền, cụ thể:

- Sáng ngày 10/10/2022, khi H đang ở nhà thì có Nông Thị Thu H2 (trú tại: Tổ dân phố Tân Thịnh, thị trấn T, Quảng Hòa) đến gặp H để hỏi mua 01 gói ma túy với giá 100.000 đồng.

- Khoảng 06 giờ ngày 25/6/2022, tại nhà ở của mình cũng với hình thức giao dịch như trên, H bán cho Hoàng Văn C (trú tại Tổ dân phố Pác Phéc, thị trấn T, Quảng Hòa) 01 gói ma túy với giá 100.000 đồng.

- Khoảng 07 giờ ngày 25/6/2022, cũng tại nhà ở của mình, H tiếp tục bán ma túy cho Nguyễn Văn T3 (trú tại Phố Cách Linh, xã Cách Linh, Quảng Hòa) 01 gói với giá 100.000 đồng. Nguồn gốc số ma túy mà H đưa cho C, S và bán cho Nông Thị Thu H2, Hoàng Văn C và Nguyễn Văn T3 và gói ma túy tổng hợp dạng đá mà Cơ quan điều tra khám xét thu giữ là do H mua với một người đàn ông không quen biết tại khu vực nhà hoang thuộc Tổ dân phố Tân Thịnh, thị trấn T, Quảng Hòa, C vào ngày 09/10/2022 với số tiền 2.000.000 đồng được 01 gói ma túy, loại Heroine và 01 gói ma túy dạng đá mục đích mua về để sử dụng và bán kiếm lời. Số ma túy, loại Heroine sau khi mua được, H đem về nhà sử dụng cho bản thân và đã bán hết cho những người nghiện khác. Còn số ma túy dạng đá, H đã sử dụng một lần nhưng chưa hết, số còn lại H cất giấu nhằm mục đích vừa sử dụng vừa bán nếu có người hỏi mua. Nên khi cơ quan chức năng đến khám xét, H đã tự nguyện giao nộp.

Quá trình điều tra bị cáo Triệu Văn S khai nhận: Bản thân nghiện ma túy, khoảng tháng 6/2022 Sơn đến ở tại nhà Nguyễn Thị H, H kê cho S một chiếc giường ngủ và sinh hoạt tại trước cửa nhà của H. Quá trình sống ở đó, S biết H nghiện ma túy và có ma túy bán. Do vậy, khoảng tháng 9/2022, S chủ động gặp và thỏa thuận với H sẽ trực tiếp cầm ma túy của H để bán cho những người nghiện và H sẽ trả công cho S sử dụng ma túy không mất tiền, mỗi lần H đưa cho S 10 gói ma túy, sau khi bán hết S sẽ đưa lại cho H 800.000 đồng. Tuy nhiên, do S ở nhà của H và ăn uống cùng nhau nên số tiền bán ma túy có được S đã dùng để chi tiêu sinh hoạt hằng ngày. Do vậy, S không nhớ mình đã đưa lại cho H tất cả bao nhiêu tiền, có lần đưa nhưng có lần dùng số tiền đó để mua thức ăn hằng ngày hết. S đã được bán ma túy giúp H nhiều lần, cụ thể bao nhiêu lần và thời gian cụ thể S không nhớ. Đến khoảng hơn 08 giờ ngày 26/10/2022, tại nhà của H, S đến gặp H để hỏi lấy ma túy đi bán, H đồng ý và đưa cho S 10 gói ma túy, loại Heroine đều được gói bằng giấy bạc màu trắng. Nhận được ma túy S đã sử dụng cho bản thân 02 gói bằng hình thức chích. Trong sáng ngày 26/10/2022, khi S đang ở nhà thì có một người đàn ông tự giới thiệu tên là Khánh, ở thị trấn T (không biết họ, địa chỉ cụ thể) đến gặp và mua với S 01 gói ma túy giá 100.000 đồng. Một lúc sau có Đàm Văn A (trú tại Lũng Muông, xã N, huyện Quảng Hòa) đến nhà gặp và hỏi S “anh có tý nào không cho em hai trăm”, S trả lời “ừ”. A đưa cho S số tiền 200.000 đồng, S cầm lấy tiền rồi đưa cho A 02 gói ma túy được gói bằng giấy bạc màu trắng, A nhận lấy và đi luôn. Trước đó, tại nơi ở của mình Triệu Văn S còn bán trái phép ma túy nhiều lần cho nhiều người nghiện khác nhau, mỗi lần từ 100.000 đồng đến 200.000 đồng, chỉ nhớ những lần gần đây nhất, cụ thể: Ngày 24/10/2022 bán cho Lý Văn H3 (trú tại Tổ dân phố Pác Phéc, thị trấn T) 01 gói ma túy được gói bằng giấy bạc màu trắng với giá 100.000 đồng; bán cho Hoàng Văn T4 (trú tại Đoỏng Lèng, thị trấn T) 01 gói ma túy với giá 100.000 đồng. Ngày 25/10/2022 Sơn tiếp tục bán cho Thạch Văn S (trú tại Cốc Chang, xã Đại Sơn, huyện Quảng Hòa) 01 gói ma túy với giá 100.000 đồng.

Quá trình điều tra bị cáo Nguyễn Cao C khai nhận: Do bản thân nghiện ma túy và biết H có ma túy bán nên vào khoảng cuối tháng 9/2022 C đã chủ động gặp và thỏa thuận với H là để C trực tiếp cầm ma túy đi bán giúp H và C được hưởng lợi là sử dụng chất ma túy không mất tiền. Nếu H đưa cho 10 gói ma túy để bán, khi bán được hết thì C phải đưa cho H số tiền là 800.000 đồng. Tuy nhiên, do C là cháu của H, ăn uống và sinh hoạt ở nhà H nên số tiền có được từ việc bán trái phép chất ma túy, C dùng để mua thức ăn hàng ngày cho nên chưa có lần nào C đưa đủ 800.000 đồng cho H. C chỉ nhớ được đưa tiền bán ma túy cho H 02 lần, một lần 200.000 đồng và một lần 300.000 đồng. Đến khoảng hơn 08 giờ ngày 26/10/2022, C tiếp tục đến nhà và nhận với H 10 gói ma túy đem bán lại cho những người nghiện để kiếm lời. Sau khi nhận ma túy từ H, C đi về nhà của mình tại Tổ dân phố Tân Thịnh, đến khoảng 09 giờ 30 phút cùng ngày, thì có Mã Đình T1 (trú tại: xóm Cốc Bó, xã N, huyện Quảng Hòa) đến gặp và hỏi “anh còn không”, C trả lời “còn” thì T1 nói tiếp “cho em ba trăm” và đưa cho C 300.000 đồng, C nhận tiền rồi đi vào trong nhà lấy 01 gói ma túy gói bằng giấy bạc màu trắng đưa cho T1, T1 nhận gói ma túy rồi đi đâu C không biết. Đến khoảng 11 giờ 15 phút cùng ngày, khi C đang ở nhà của mình thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Quảng Hòa tiến hành khám xét khẩn cấp người và nơi ở phát hiện và thu giữ 09 gói nhỏ ma túy còn lại. Trước đó, Nguyễn Cao C còn được bán trái phép chất ma túy cho Mã Đình T1 02 lần, thời gian cụ thể không nhớ, mỗi lần từ 100.000 dồng đến 300.000 đồng. Ngoài những lần bán trái phép ma túy cho T1, thì Nguyễn Cao C còn được bán ma túy nhiều lần cho nhiều người nghiện khác nhau tại nhà ở của mình, cụ thể:

- Khoảng 08 giờ ngày 25/10/2022, có Lý Văn H3 (trú tại Tổ dân phố Pác Phéc, thị trấn T, Quảng Hòa) đến nhà gặp và mua với C 01 gói ma túy với giá 100.000 đồng.

- Khoảng 08 giờ 30 phút ngày 25/10/2022, có Lý Văn T2 (trú tại Tổ dân phố Pác Phéc, thị trấn T, Quảng Hòa) đến nhà gặp và mua với C 01 gói ma túy với giá 100.000 đồng.

- Khoảng 09 giờ ngày 25/10/2022, có Hoàng Văn C (trú tại Tổ dân phố Pác Phéc, thị trấn T, Quảng Hòa) đến nhà gặp và mua với C 01 gói ma túy với giá 100.000 đồng.

- Đến khoảng 11 giờ ngày 25/10/2022, có một người đàn ông tự xưng tên T5 trú tại thị trấn Hòa Thuận đến nhà gặp và mua với C 01 gói ma túy với giá 100.000 đồng.

Toàn bộ số ma túy này C nhận với H vào buổi sáng ngày 25/10/2022 rồi đem về sử dụng và bán cho những người nghiện nêu trên.

Do không xác định được đối tượng đã bán ma túy cho Nguyễn Thị H (theo lời khai của H vào ngày 09 và ngày 26/10/2022), nên không mở rộng điều tra, xử lý được.

Đối với người đàn ông tự xưng tên là T5 (không rõ họ, địa chỉ cụ thể) mua ma túy với Nguyễn Cao C và người đàn ông tự xưng tên là K (không rõ họ, địa chỉ cụ thể) mua ma túy với Triệu Văn S. Quá trình điều tra không xác định được họ tên, địa chỉ cụ thể nên không đủ căn cứ để mở rộng điều tra.

Đối với Nguyễn Văn H1 và Mã Đình T1 có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Công an huyện Quảng Hòa đã ra Quyết định xử phạt hành chính bằng hình thức Cảnh cáo đối với Mã Đình T1 (quyết định 84 ngày 15/11/2022) và phạt tiền đối với Nguyễn Văn H1 (quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 07 ngày 26/12/2022).

Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố và luận tội bị cáo theo như Cáo trạng số 11/CT-VKSQH ngày 27/3/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quảng Hòa và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng điểm b, q khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Thị H từ 09 đến 10 năm tù.

- Áp dụng điểm b, q khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Triệu Văn S từ 07 năm 6 tháng đến 08 năm 6 tháng tù.

- Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 và Điều 38 của Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Cao C từ 07 đến 08 năm tù.

Không xử phạt tiền (bổ sung) do các bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập.

Buộc các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và xử lý vật chứng theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Quảng Hòa, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Quảng Hòa, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều đúng quy định của pháp luật.

[2] Về hành vi phạm tội của các bị cáo: Tại phiên tòa các bị cáo đã thành khẩn nhận tội, lời nhận tội của các bị cáo đều phù hợp với bản tự khai, biên bản hỏi cung, lời khai người làm chứng, vật chứng thu giữ khi bắt quả tang, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, trên cơ sở được thẩm tra, tranh tụng công khai tại phiên tòa, Hội đồng xét xử có căn cứ kết luận:

Đối với bị cáo Nguyễn Thị H: Do nghiện ma túy, cho nên vào khoảng 08 giờ ngày 26/10/2022 Nguyễn Thị H đi bộ đến khu vực nhà hoang thuộc Tổ dân phố Tân Thịnh gặp và mua với một người đàn ông không quen biết 01 gói ma túy, loại Heroine với giá 2.000.000 đồng đem về nhà chia ra 35 gói nhỏ nhằm mục đích để sử dụng và bán kiếm lời. H đưa cho Nguyễn Cao C và Triệu Văn S mỗi người 10 gói để bán hộ và trả công cho S và C bằng ma túy để sử dụng. Đưa cho Nguyễn Văn H1 (cháu của H) sử dụng 02 gói, số còn lại 13 gói ma túy, loại Heroine có khối lượng 0,250 gam và 01 gói ma túy, loại Methamphetamine có khối lượng 0,201 gam, H đã tự nguyện giao nộp khi bị lực lượng chức năng đến khám xét. Từ ngày 10/10/2022 đến ngày 26/10/2022, Nguyễn Thị H đã bán trái phép chất ma túy cho nhiều người nghiện khác nhau, gồm: Bán cho Nông Thị Thu H2 01 gói với giá 100.000 đồng; bán cho Hoàng Văn C 01 gói với giá 100.000 đồng; bán cho Nguyễn Văn T1 01 gói với giá 100.000 đồng, được C đưa cho 200.000 đồng. Tổng thu lợi bất chính 500.000 đồng. Đưa cho Nguyễn Cao C và Triệu Văn S đi bán hộ nhiều lần, số lần cụ thể không nhớ, mỗi lần mỗi người 10 gói. Đến khoảng 12 giờ ngày 26/10/2022 khi H đang ở nhà thì bị Cơ quan chức năng khám phát hiện và bắt giữ.

Đối với bị cáo Triệu Văn S: Sau khi nhận ma túy từ H, đã đem bán cho những người nghiện 03 gói, sử dụng cho bản thân 02 gói. Còn lại 05 gói ma túy, loại Heroine có khối lượng 0,117 gam bị cơ quan chức năng bắt quả tang và khám xét phát hiện thu giữ. Từ ngày 24 đến ngày 26/10/2022, Triệu Văn S đã bán trái phép chất ma túy cho nhiều người nghiện khác nhau, gồm: Bán cho Thạch Văn S 01 gói với giá 96.000 đồng; bán cho Hoàng Văn T4 01 gói với giá 100.000 đồng; bán cho K (không rõ họ, địa chỉ) 01 gói với giá 100.000 đồng;

bán cho Lý Văn H3 01 gói với giá 100.000 đồng; bán cho A 01 gói với giá 200.000 đồng. Tổng 05 lần bán trái phép chất ma túy, S thu lợi bất chính số tiền:

596.000 đồng.

Đối với bị cáo Nguyễn Cao C: Sau khi nhận ma túy từ H, đã đem bán cho Mã Đình T1 01 gói, còn lại 09 gói có khối lượng 0,193 gam ma túy, loại Heroine C cất giấu mục đích để bán kiếm lời thì bị Cơ quan điều tra khám xét phát hiện thu giữ. Từ ngày 25 đến ngày 26/10/2022, Nguyễn Cao C đã bán trái phép chất ma túy cho nhiều người nghiện khác nhau, gồm: Bán cho Hoàng Văn C 01 gói với giá 100.000 đồng; bán cho Lý Văn T2 01 gói với giá 100.000 đ; bán cho Lý Văn H3 01 gói với giá 100.000 đồng; bán cho T5 (không rõ họ, địa chỉ) 01 gói với giá 100.000 đồng; bán cho Mã Đình T1 03 lần, mỗi lần từ 100.000 đồng đến 300.000 đồng, cụ thể từng lần không nhớ, lần gần đây nhất là ngày 26/10/2022 bán cho T1 01 gói với giá 300.000 đồng. Tổng 05 lần bán trái phép chất ma túy, C thu lợi bất chính số tiền: 700.000 đồng. Đến khoảng 11 giờ 15 phút ngày 26/10/2022 khi C đang ở nhà thì bị cơ quan chức năng khám xét khẩn cấp, thu giữ toàn bộ vật chứng.

Như vậy, hành vi của bị cáo Nguyễn Thị H và Triệu Văn S đã đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tội danh và hình phạt được quy định tại điểm b, q khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự. Hành vi của bị cáo Nguyễn Cao C đã đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tội danh và hình phạt được quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Do đó Cáo trạng số 11/CT-VKSQH ngày 27/3/2023 của VKSND huyện Quảng Hòa truy tố các bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

[3] Xét tính chất, mức độ phạm tội, nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự:

Bị cáo Nguyễn Thị H là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được tác hại của ma túy và là mặt hàng nhà nước cấm mua bán, nhưng do hám lợi, bị cáo đã mua ma túy về để nhằm mục đích vừa sử dụng vừa bán cho những người nghiện, điều đó góp phần làm gia tăng các đối tượng nghiện ma túy trên địa bàn, gây ảnh hưởng đến tình hình trật tự trị an trong khu vực, bị quần chúng nhân dân lên án. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến việc quản lý của Nhà nước về chất ma túy. Bị cáo là chủ mưu, là người có chất ma tuý để đưa cho Triệu Văn S và Nguyễn Cao C đem đi bán kiếm lời, được trả công bằng ma túy để S và C sử dụng, do đó sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự ở mức độ cao hơn so với S và C. Ngoài ra, bị cáo thực hiện hành vi phạm tội rất nghiêm trọng trong trường hợp chưa được xóa án tích theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 53 của Bộ luật hình sự là tái phạm nguy hiểm thuộc tình tiết định khung quy định tại điểm q khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự, vì vậy cần phải có mức án nghiêm khắc để cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm cải tạo bị cáo và phòng ngừa tội phạm nói chung. Tuy nhiên trong quá trình điều tra và phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, do đó bị cáo sẽ được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: không có. Không áp dụng hình phạt tiền (bổ sung) vì bị cáo không có thu nhập. Vì vậy khi quyết định hình phạt, hội đồng xét xử sẽ xem xét cân nhắc.

Bị cáo Triệu Văn S là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được tác hại của ma túy và là mặt hàng nhà nước cấm mua bán, nhưng bị cáo đã chấp nhận lấy ma túy với Nguyễn Thị H đem đi bán nhằm được H trả công bằng ma túy để sử dụng, điều đó góp phần làm gia tăng các đối tượng nghiện ma túy trên địa bàn, gây ảnh hưởng đến tình hình trật tự trị an trong khu vực, bị quần chúng nhân dân lên án. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến việc quản lý của Nhà nước về chất ma túy, bị cáo thực hiện hành vi phạm tội rất nghiêm trọng trong trường hợp chưa được xóa án tích theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 53 của Bộ luật hình sự là tái phạm nguy hiểm thuộc tình tiết định khung quy định tại điểm q khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự, vì vậy cần phải có mức án nghiêm khắc để cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm cải tạo bị cáo và phòng ngừa tội phạm nói chung. Tuy nhiên trong quá trình điều tra và phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, do đó bị cáo sẽ được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: không có. Không áp dụng hình phạt tiền (bổ sung) vì bị cáo không có thu nhập. Vì vậy khi quyết định hình phạt, hội đồng xét xử sẽ xem xét cân nhắc.

Bị cáo Nguyễn Cao C là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được tác hại của ma túy và là mặt hàng nhà nước cấm mua bán, nhưng bị cáo đã chấp nhận lấy ma túy với Nguyễn Thị H đem đi bán nhằm được H trả công bằng ma túy để sử dụng, điều đó góp phần làm gia tăng các đối tượng nghiện ma túy trên địa bàn, gây ảnh hưởng đến tình hình trật tự trị an trong khu vực, bị quần chúng nhân dân lên án. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến việc quản lý của Nhà nước về chất ma túy, bị cáo thực hiện hành vi phạm tội rất nghiêm trọng trong trường hợp chưa được xóa án tích thuộc trường hợp tái phạm là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự, vì vậy cần phải có mức án nghiêm khắc để cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm cải tạo bị cáo và phòng ngừa tội phạm nói chung. Tuy nhiên trong quá trình điều tra và phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, do đó bị cáo sẽ được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Không áp dụng hình phạt tiền (bổ sung) vì bị cáo không có thu nhập. Vì vậy khi quyết định hình phạt, hội đồng xét xử sẽ xem xét cân nhắc.

[4] Tại phiên tòa Kiểm sát viên luận tội và đề nghị áp dụng các điều luật, mức hình phạt tù đối với bị cáo Nguyễn Thị H, Nguyễn Cao C và xử lý vật chứng, án phí là có căn cứ pháp luật. Tuy nhiên khi đề nghị áp dụng hình phạt đối với bị cáo Triệu Văn S là có phần nhẹ so với các bị cáo khác, vì vậy Hội đồng xét xử sẽ xem xét cân nhắc.

[5] Phần tranh luận các bị cáo đã nhận tội và không có ý kiến tranh luận.

[6] Phần nói lời sau cùng: Bị cáo Nguyễn Thị H, Triệu Văn S, Nguyễn Cao C rất hối hận về hành vi phạm tội của mình, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho các bị cáo hưởng mức án nhẹ nhất để sửa lỗi lầm, sớm trở về với gia đình.

[7] Về xử lý vật chứng:

- Đối với 01 (một) phong bì niêm phong mặt trước ghi “số: 352/GĐ- KTHS. Hoàn mẫu sau giám định vụ Nguyễn Thị H có hành vi Mua bán trái phép chất ma túy xảy ra ngày 26/10/2022” và 01 (một) phong bì thư mặt trước ghi “Vỏ niêm phong ban đầu của Nguyễn Thị H, niêm phong ngày 26/10/2022”. 01 (một) phong bì niêm phong mặt trước ghi “số: 332/GĐ-KTHS. Hoàn mẫu sau giám định vụ Triệu Văn S, Tàng trữ trái phép chất ma túy, bắt ngày 26/10/2022” và 01 (một) phòng bì thư mặt trước ghi “Giấy gói và vỏ niêm phong ban đầu của Triệu Văn S”. 01 (một) phong bì niêm phong mặt trước ghi “một xilanh và hai mảnh giấy bạc màu trắng của Nguyễn Văn H1” và 01 (một) phong bì niêm phong mặt trước ghi “Tang vật của Mã Đình T1 sử dụng trái phép chất ma túy xảy ra ngày 26/10/2022”. 01 (một) phong bì niêm phong mặt trước ghi “số:

351/GĐ-KTHS. Hoàn mẫu sau giám định vụ Nguyễn Cao C có hành vi Mua bán trái phép chất ma túy xảy ra ngày 26/10/2022” và 01 (một) phòng bì thư mặt trước ghi “Vỏ niêm phong ban đầu của Nguyễn Cao C, niêm phong ngày 26/10/2022”. Đây là vật chứng của vụ án, là chất ma túy hoàn lại sau giám định, nhà nước cấm lưu hành cần tịch thu để tiêu hủy.

- Đối với số tiền 2.870.000 đồng thu giữ của Nguyễn Thị H, quá trình điều tra xác định có 200.000 đồng do bán trái phép chất ma túy cho Nguyễn Văn T3, Hoàng Văn C mà có, vì vậy sẽ bị tịch thu sung ngân sách nhà nước, số còn lại 2.670.000 đồng là do đi làm thuê mà có, sẽ trả cho bị cáo H.

- Đối với số tiền 370.000 đồng thu giữ của Triệu Văn S, quá trình điều tra thấy số tiền này là do S bán trái phép chất ma túy mà có nhưng S chưa kịp đưa cho Nguyễn Thị H thì bị bắt giữ, vì vậy sẽ bị tịch thu để sung ngân sách nhà nước.

- Đối với số tiền 300.000 đồng do Nguyễn Thị H bán ma túy cho Nông Thị Thu H2 và Nguyễn Cao C mà có, 700.000 đồng do Nguyễn Cao C bán ma túy Mã Đình T1, Lý Văn H3, Lý Văn T2, Hoàng văn C, người tên T5 mà có, 226.000 đồng do Triệu Văn S bán ma túy mà có sẽ bị truy thu để sung ngân sách nhà nước.

- Đối với 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu VIVO màu đỏ loại màn hình cảm ứng, máy cũ đã qua sử dụng thu giữ của Triệu Văn S, quá trình điều tra thấy không liên quan đến hành vi phạm tội, vì vậy sẽ trả lại cho bị cáo.

- Đối với 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen trắng loại bàn phím bấm, máy cũ đã qua sử dụng thu giữ của Nguyễn Cao C, quá trình điều tra thấy không liên quan đến hành vi phạm tội, vì vậy sẽ trả lại cho bị cáo.

[8] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về trách nhiệm hình sự:

- Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Thị H, Triệu Văn S, Nguyễn Cao C phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

- Căn cứ điểm b, q khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38, 53 của Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị H 10 (Mười) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 26/10/2022. Xử phạt bị cáo Triệu Văn S 09 (Chín) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 26/10/2022.

- Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 và Điều 38, 53 của Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Nguyễn Cao C 08 (Tám) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 26/10/2022.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật hình sự; điểm a, b khoản 2, 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự 2015.

- Tịch thu để tiêu hủy:

+ 01 (một) phong bì niêm phong mặt trước ghi “số: 352/GĐ-KTHS. Hoàn mẫu sau giám định vụ Nguyễn Thị H có hành vi Mua bán trái phép chất ma túy xảy ra ngày 26/10/2022” và 01 (một) phong bì thư mặt trước ghi “Vỏ niêm phong ban đầu của Nguyễn Thị H, niêm phong ngày 26/10/2022”.

+ 01 (một) phong bì niêm phong mặt trước ghi “số: 332/GĐ-KTHS. Hoàn mẫu sau giám định vụ Triệu Văn S, Tàng trữ trái phép chất ma túy, bắt ngày 26/10/2022” và 01 (một) phòng bì thư mặt trước ghi “Giấy gói và vỏ niêm phong ban đầu của Triệu Văn S”.

+ 01 (một) phong bì niêm phong mặt trước ghi “một xilanh và hai mảnh giấy bạc màu trắng của Nguyễn Văn H1” và 01 (một) phong bì niêm phong mặt trước ghi “Tang vật của Mã Đình T1 sử dụng trái phép chất ma túy xảy ra ngày 26/10/2022”.

+ 01 (một) phong bì niêm phong mặt trước ghi “số: 351/GĐ-KTHS. Hoàn mẫu sau giám định vụ Nguyễn Cao C có hành vi Mua bán trái phép chất ma túy xảy ra ngày 26/10/2022” và 01 (một) phòng bì thư mặt trước ghi “Vỏ niêm phong ban đầu của Nguyễn Cao C, niêm phong ngày 26/10/2022”.

- Tịch thu 200.000,đ và truy thu 300.000,đ trong số tiền 2.870.000,đ do bị cáo Nguyễn Thị H bán ma túy mà có để sung ngân sách nhà nước, số tiền còn lại sẽ trả cho bị cáo, nhưng cần tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

- Tịch thu 370.000,đ và truy thu 226.000,đ do bị cáo Triệu Văn S bán ma túy mà có để sung ngân sách nhà nước.

- Truy thu 700.000,đ do bị cáo Nguyễn Cao C bán ma túy mà có để sung ngân sách nhà nước.

- Trả lại cho bị cáo Triệu Văn S: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu VIVO màu đỏ loại màn hình cảm ứng, máy cũ đã qua sử dụng.

- Trả lại cho bị cáo Nguyễn Cao C: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen trắng loại bàn phím bấm, máy cũ đã qua sử dụng.

Số vật chứng hiện đang được tạm giữ tại kho tang vật của Chi cục thi hành án dân sự huyện Quảng Hòa, sẽ được đưa ra thi hành khi bản án có hiệu lực pháp luật.

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự 2015; Điều 21, Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc các bị cáo Nguyễn Thị H, Triệu Văn S, Nguyễn Cao C, mỗi bị cáo phải chịu 200.000,đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm để sung Ngân sách nhà nước.

4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, 333 của Bộ luật tố tụng hình sự: Án xử sơ thẩm công khai có mặt các bị cáo, báo cho biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

35
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 07/2023/HS-ST

Số hiệu:07/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quảng Hòa - Cao Bằng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/04/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về