TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NGA SƠN, TỈNH THANH HOÁ
BẢN ÁN 03/2024/HS-ST NGÀY 16/01/2024 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 16/01/2024, tại Hội trường UBND thị trấn S, huyện S, tỉnh Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 36/2023/HSST ngày 22/12/2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 01/2024/QĐXXST-HS ngày 05/01/2024 đối với các bị cáo:
1/ Đinh Văn T, sinh ngày 10 tháng 8 năm 1983; HKTT: Thôn Nhân Sơn, xã N, huyện S, tỉnh Thanh Hóa; Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên Chúa giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Đinh Văn Đ, sinh năm 1964; con bà: Nguyễn Thị H, sinh năm 1964; có vợ: Trần Thị K, sinh năm 1983 (đã ly hôn); có 02 con: con lớn sinh năm 2002, con nhỏ sinh năm 2006.
Tiền án: Ngày 20/7/2010 bị cáo bị Tòa án nhân dân thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” và 09 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo bản án số 75/2010/HSST, buộc bị cáo phải chấp hành chung của hai tội là 18 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 10/01/2010. Bị cáo chấp hành xong hình phạt ngày 10/7/2011 nhưng chưa thi hành phần trách nhiệm bồi thường dân sự theo yêu cầu của bị hại.
Tiền sự: không.
Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 29/8/2023 đến ngày 04/9/2023, sau đó chuyển tạm giam cho đến nay.Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện S, tỉnh Thanh Hóa; Có mặt tại phiên tòa.
2/ Trần Văn L, sinh ngày 20 tháng 4 năm 2004; HKTT: Thôn 7, xã T, huyện S, tỉnh Thanh Hóa; Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên Chúa giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông: không xác định; con bà: Đinh Thị N, sinh năm 1973; chưa có vợ, con.
Tiền án; tiền sự: không;
Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 29/8/2023 đến ngày 04/9/2023, sau đó chuyển tạm giam cho đến nay.Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện S, tỉnh Thanh Hóa; Có mặt tại phiên tòa.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1/ Anh Nguyễn Việt H - Sinh năm 1990; địa chỉ: Thôn 1, xã T, huyện S, tỉnh Thanh Hóa; (vắng mặt).
2/ Anh Nguyễn Văn P - Sinh năm 1994; địa chỉ: Thôn M, xã T, huyện S, tỉnh Thanh Hóa; (vắng mặt).
* Người làm chứng:
1/ Anh Nguyễn Mạnh H - Sinh năm 1970; địa chỉ: Tổ 3, phố D Tây, thị trấn D, huyện Kim Sơn, tỉnh N; (vắng mặt)
2/ Anh Vũ Văn C - Sinh năm 1992; địa chỉ: Thôn 7, xã T, huyện S, tỉnh Thanh Hóa; (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung được tóm tắt như sau: Nguyễn Việt H và Nguyễn Văn P là bạn bè và cùng nghiện ma túy, H nghiện Heroine, P nghiện Mathamphetamine. H và P đã có lần mua ma túy của Đinh Văn T và Trần Văn L để sử dụng. Tại nhà T, H giới thiệu mình tên là T1, còn P tên là Đen nên khi giao dịch mua bán hay nói chuyện với nhau, T và L chỉ biết T1 (tức H) và Đen (tức P). Chiều ngày 29/8/2023, P gặp H ở xã T, huyện S, cả hai rủ nhau mua ma túy về sử dụng. P nói H bỏ tiền ra mua cho cả P rồi P sẽ đưa tiền cho H sau, H đồng ý. Sau đó, H sử dụng điện thoại di động, có số thuê bao 0777.452.xxx gọi điện thoại cho Đinh Văn T có số thuê bao 0866.162.xxx, hỏi mua 400.000đ trắng (tức Heroine) và 500.000đ đá (tức Methamphetamine). T nói: anh chỉ có “đá”, không có “trắng” và bảo gọi cho L. Sau khi nghe T nói, H gọi điện thoại đến số thuê bao 0855.032.xxx của L nhưng L không nghe máy nên H lại gọi cho T nói về việc không gọi được cho L. T nói để anh gọi cho L. Sau đó, T gọi điện thoại cho L nói: “T1 (H) nhờ mày về mua cái gì kìa”. L biết H nghiện heroine nên khi nghe T nói, L hiểu là T gọi về đi mua heroine để bán cho H, L đồng ý. Lúc này, L và anh Vũ Văn C, sinh năm 1992, ở cùng xã T đang chơi geam tại xã Nga Hải, huyện S nên L nói với anh C cho mượn xe mô tô đi ra ngoài một lúc. Anh C đồng ý và đưa chiếc xe mô tô Honda WINNER màu đen, vàng, biển kiểm soát 36G1- xxxxx của mình cho L. L điều khiển xe mô tô đến nhà T, T đưa cho L 400.000đ để đi mua heroine. Nhận tiền từ T, L đi đến nhà một người đàn ông không biết tên, tuổi cụ thể ở khu vực cầu Yên L, xã Yên L, huyện Kim Sơn, tỉnh N mua 400.000đ 2 heroine. Một lúc sau, H và P đi xe mô tô đến nhà T, ngồi nói chuyện với T. T đưa cho P 01 đoạn ống nhựa màu trắng, bên trong có chứa ma túy đá. Do không có tiền lẻ nên H đưa cho T 1.000.000đ (gồm 05 tờ tiền có mệnh giá 200.000đ). Khoảng 05 phút sau thì L về, đưa cho H 01 gói heroine, H cho L 50.000đ.
Đến 18h cùng ngày, khi T và L vừa thực hiện hành vi bán trái phép chất ma túy cho Nguyễn Việt H thì bị Cơ quan CSĐT Công an huyện S bắt quả tang, thu giữ:
- Trên người Nguyễn Việt H: 01 gói giấy màu vàng, bên trong chứa chất màu trắng dạng cục vụn và 01 điện thoại di động có nhãn hiệu Masstel màu đen, số IMEi1: 35804847060601, IMEi2 358044847060619, gắn sim số 0777.452.xxx;
- Thu trên người Nguyễn Văn P 01 đoạn ống nhựa dạng ống hút màu trắng dán kín hai đầu, bên trong chứa chất màu trắng dạng tinh thể;
- Thu của Đinh Văn T số tiền 1.000.000đ và 01 điện thoại di động có nhãn hiệu Galaxy A13 màu đen, số IMEi1: 352469851473232, IMEi2 357132371473232, gắn sim số 0866.162.xxx;
- Thu của Trần Văn L số tiền 50.000đ, 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu đen, số IMEi1: 358044847060601, IMEi2: 358044847060619, gắn sim số 0332.641.xxx và 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda winner, màu đen, gắn biển kiểm soát 36G1-xxxxx.
Đinh Văn T và Nguyễn Văn L khai nhận: ma túy, loại heroine Cơ quan CSĐT thu giữ trên người Nguyễn Việt H là của T nhờ L đi mua về để bán cho H; ma túy loại Methamphetamine thu trên người của P là của T mua trước đó để sử dụng cho bản thân và để bán cho H nhưng do P là bạn của H, lại đứng gần T nên T đưa cho P.
Cơ quan CSĐT đã tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của T, thu giữ:
- 01 vỏ túi ni lon trong suốt, dạng túi zip, kích thước (12x7)cm, bên trong có 01 vỏ túi ilon trong suốt, dạng túi zip, kích thước (10x6)cm, bên trong là 01 túi zip kích thước (7x4)cm, chứa chất màu trắng dạng tinh thể để trong gầm loa, đặt bên cạnh góc tay phải ngay cửa chính phòng khách tầng 1 đi vào;
- 01 nắp nhựa màu trắng đục có 02 lỗ, một lỗ gắn đoạn ống thủy tinh dạng cống, đầu ống hình bầu dục, đầu còn lại gắn đoạn ống nhựa màu vàng, một lỗ gán đoạn ống nhựa dạng ống hút gồm 04 đoạn có màu hồng, xanh, cam, tím nối với nhau để trong gầm loa, đặt bên góc tay phải của chính phòng khách tầng 1 đi vào;
- 02 đoạn ống nhựa màu trắng, kích thước (1,5 x0,5) cm dán kín 02 đầu, bên trong chứa chất màu trắng dạng tinh thể, thu giữ trên kệ bàn thờ Thiên chúa treo trên tường bên trái phòng khách tầng 1;
- 01 chai nhựa màu trắng, nắp màu đỏ, đục 02 lỗ, một lỗ gắn đoạn ống nhựa dạng ống hút gồm 02 đoạn có màu hồng và vàng gắn với nhau để dưới gầm ghế bên phải phòng khách tầng 1;
3 - 04 ống thủy tinh dạng cóng, đầu ống hình bầu dục, trong đó: 03 ống trắng, không có gì bên trong, 01 ống có bám dính chất màu nâu tại đầu ống hình bầu dục, để trên nắp loa đặt ở kệ ti vi phía bên phải phòng khách tầng 1, hướng từ cửa chính đi vào.
Cơ quan CSĐT đã tiến hành niêm phong các đồ vật thu giữ đúng quy định. Ngày 04/9/2023, Cơ quan CSĐT Công an huyện S đã ra Quyết định trưng cầu Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa giám định các mẫu vật mà Cơ quan CSĐT Công an huyện S niêm phong gửi giám định có phải là ma túy không ? Nếu là ma túy thì là loại ma túy gì ? Có khối lượng bao nhiêu.
Tại Kết luận giám định số 3128/KL-KTHS ngày 04/9/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa kết luận:
- Chất màu trắng dạng cục vụn của phong bì niêm phong mặt trước có ghi “Quả tang M1” gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 0,007g (không phẩy không không bẩy gam) loại heroine.
- Chất màu trắng dạng tinh thể của phong bì niêm phong mặt trước có ghi “Quả tang M2” gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 0,019g (không phẩy không một chín gam) loại: Methamphetamine;
- Chất màu trắng dạng tinh thể của phong bì niêm phong mặt trước có ghi “K1” gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 2,905g (hai phẩy chín không năm gam) loại: Methamphetamine;
- Chất màu trắng dạng tinh thể của phong bì niêm phong mặt trước có ghi “K2” gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 0,225g (không phẩy hai hai năm gam) loại: Methamphetamine;
- Tìm thấy chất ma túy, loại Methamphetamin trong chất màu nâu bám dính trong ống thủy tinh của phong bì niêm phong mặt trước có ghi “K3” gửi giám định. Không xác định được khối lượng chất ma túy.
Quá trình điều tra T và L còn tự thú khai nhận ngoài lần bán ma túy cho H và P vào buổi chiều ngày 29/8/2023 thì vào chiều ngày 23/8/2023, H gọi điện thoại di động cho T hỏi mua 500.000đ ma túy đá về sử dụng, T đồng ý và hẹn H ra nhà lấy thì H hỏi mua thêm Heroine, T trả lời không có và nói H liên hệ với L.H điện thoại cho L hỏi mua 370.000đ ma túy, L đồng ý và đi đến nhà một người đàn ông không biết tên, tuổi cụ thể ở khu vực cầu Yên L, xã Yên L, huyện Kim Sơn, tỉnh N, mua 300.000đ Heroine rồi mang về bán cho H. Trên đường L từ huyện Kim Sơn, tỉnh N trở về huyện S, tỉnh Thanh Hóa thì H gọi điện thoại cho L nói anh đang ở đường, gần nhà anh T. Sau đó, H cùng với P đi đến nhà T, T đưa cho H một đoạn ống nhựa màu trắng, bên trong có ma túy đá, hai đầu ống được dán kín. H trả cho T 500.000 đồng rồi H và P đi về. Khi H và P đi ra khỏi cổng nhà T thì L đi đến. L đưa cho H gói Heroine, còn H đưa cho L 370.000 đồng, rồi H và P đi về nhà mình. Số tiền 4 mua ma túy về để sử dụng là của H và P góp lại nhưng H là người trực tiếp giao dịch với T và L.
Đối với số ma túy T và L đã bán trái phép cho Nguyễn Việt H vào ngày 23/8/2023, H và P đã sử dụng hết nên Cơ quan điều tra không tiến hành thu giữ và xác định được khối lượng.
Nguồn gốc số ma túy T bán cho H vào ngày 23/8/2023 là do T đi ăn sáng ở quán ăn gần cầu Điền Hộ, xã Đ, huyện S thì gặp người đàn ông giới thiệu tên là Q ở xóm 3, xã Đ, cao khoảng 1m7, người gầy, da đen, nói có biết người đàn ông tên là Th ở huyện Kim Sơn, tỉnh N bán ma túy nên T nhờ Q mua hộ 900.000 đồng ma túy đá. Sau đó, T mang về nhà bán cho H 500.000 đồng. Số ma túy còn lại, H cất giấu tại nơi ở của mình để sử dụng và nếu có ai mua thì bán.
Cơ quan Cảnh sát điều tra đã tiến hành xác minh, kết quả xác minh ở xóm 3, xã Đ không có người đàn ông tên Q và có đặc điểm như T mô tả. Số ma túy bán cho H vào chiều ngày 29/8/2023 là do buổi sáng cùng ngày, T dùng số điện thoại của mình gọi cho người đàn ông tên là H ở khu vực gần cầu Lưu Phương, thị trấn D, huyện Kim Sơn, tỉnh N (số điện thoại do người đàn ông tên Q cho) hỏi mua ma túy đá với giá 3.150.000 đồng nhưng không biết địa chỉ cụ thể, chỉ nhớ số điện thoại của người này có ba số cuối là xxx. Người tên H đồng ý bán ma túy cho T và dặn gửi tiền cho H qua lơ xe buýt tuyến Lai Thành - N rồi đến chân cột điện gần cầu Điền Hộ ở xã Đ, huyện S nhận ma túy, sau khi liên lạc thì xóa số của H. T cầm tiền đến điểm xe buýt chạy qua, gửi người lơ xe và đọc số điện thoại của H cho người này (không biết tên tuổi, địa chỉ, không nhớ mặt người này và không nhớ tuyến xe buýt số bao nhiêu). Một lúc sau, T đến gốc cây cột điện gần cầu Điền Hộ, xã Đ, huyện S tìm và thấy vỏ bao thuốc lá Th Long, bên trong có ma túy, T mang về nhà cất dấu để sử dụng và bán cho H. Cơ quan cảnh sát điều tra kiểm tra danh bạ điện thoại của T, có số điện thoại 0977.322.xxx, lưu tên là “Anh H”, T trình bày đây là số điện thoại của người đã bán ma túy cho T nên Cơ quan CSĐT Công an huyện S đã tiến hành xác minh tại Vietteel Thanh Hóa về chủ thuê bao của số điện thoại 0977.322.xxx, kết quả: chủ thuê bao là Nguyễn Mạnh H, sinh năm 1970, ở D Tây, Thị Trấn D, huyện Kim Sơn, tỉnh N. Quá trình điều tra, H trình bày có sử dụng số điện thoại trên nhưng đã mất điện thoại trước đó khoảng 02 tháng, sau đó chỉ sử dụng số điện thoại 0965.448.xxx, H không biết ai tên là T ở huyện S và cũng chưa từng bán ma túy cho ai. Do việc giao dịch mua bán ma túy qua điện thoại, bản thân T không gặp trực tiếp và cũng không biết mặt của H; H lại không thừa nhận việc bán ma túy cho T, không có người chứng kiến nên không đủ căn cứ để xử lý đối với Nguyễn Mạnh H.
5 Đối với số ma túy, loại Heroine, L bán cho H ngày 23/8/2023 và ngày 29/8/2023 là L mua của người đàn ông ở gần cầu Yên L, xã Yên L, huyện Kim Sơn, tỉnh N nhưng không biết tên, tuổi và địa chỉ cụ thể, nên không có cơ sở để xác minh truy tìm.
Chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA WINNER màu đen, gắn biển kiểm soát 36G1-xxxxx, L mượn của anh Vũ Văn C, anh C không biết L mượn để làm phương tiện đi mua ma túy về bán cho H nên Cơ quan điều tra đã trả lại cho anh C.
Vật chứng còn lại của vụ án đang được bảo quản để xử lý theo quy định, gồm:
- 01 điện thoại di động có nhãn hiệu Masstel màu đen, số IMEi1: 35804847060601, IMEi2 358044847060619, gắn sim số 0777.452.xxx của Nguyễn Việt H;
- 01 điện thoại di động có nhãn hiệu Galaxy A13 màu đen, số IMEil: 352469851473232, IMEi2 357132371473232, gắn sim số 0866.162.xxx của Đinh Văn T;
- 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu đen, số IMEi1: 867241586307243, IMEi2: 867241586307250, gắn sim số 0855.032.xxx và sim số 0332.641.xxx của Trần Văn L;
- Số tiền T và L có được do bán ma túy là 900.000 đồng; của L được H cho là 50.000 đồng và 100.000 đồng của H đưa thừa cho T nhưng T chưa kịp trả lại.
- 01 nắp nhựa màu trắng đục, có 02 lỗ, một lỗ gắn đoạn ống thủy tinh dạng cóng, đầu ống hình bầu dục, đầu còn lại gắn đoạn ống nhựa màu vàng, một lỗ gắn đoạn ống nhựa dạng ống hút gồm 04 đoạn có màu hồng, xanh, cam, tím nối với nhau;
- 01 chai nhựa màu trắng, nắp màu đỏ, đục 02 lỗ, một lỗ gắn đoạn ống nhựa dạng ống hút gồm 02 đoạn có màu hồng và vàng gắn với nhau;
- 03 ống thủy tinh màu trắng, dạng cóng, đầu hình bầu dục;
- Chất màu trắng dạng cục vụn của phong bì mặt trước có ghi “Quả tang M1” và chất màu nâu bám dính của phong bì mặt trước có ghi “K3” đã sử dụng hết trong quá trình giám định; toàn bộ vỏ bao gói mở niêm phong của 05 phong bì và các mẫu vật còn lại sau giám định được đựng trong một phong bì niêm phong mẫu vật do Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa phát hành, được dán kín, niêm phong bởi các chữ ký ghi rõ họ tên Nguyễn Trần Đ, Lê H C và các hình dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa.
Tại phiên toà, đại diện VKSND huyện S vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với các bị cáo theo cáo trạng số 05/CT-VKSNS ngày 22/12/2023 về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, theo điểm b khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự và đề nghị HĐXX áp dụng:
6 - điểm b khoản 2 Điều 251; Điều 38; Điều 17; Điều 58; điểm r, s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Đinh Văn T từ 08 năm 06 tháng đến 09 năm tù; thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ (29/8/2023).
- điểm b khoản 2 Điều 251; Điều 38; Điều 17; Điều 58; điểm r, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Trần Văn L từ 07 năm đến 07 năm 06 tháng tù;
thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ (29/8/2023).
* Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung theo khoản 5 Điều 251 BLHS đối với các bị cáo.
* Xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 BLHS và khoản 1, 2, điểm a khoản 3 Điều xxx BLTTHS:
Tịch thu tiêu hủy gồm:
- Toàn bộ vỏ bao gói mở niêm phong và số tang vật còn lại sau khi giám định được niêm phong trong 01 phong bì niêm phong mẫu vật do Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa phát hành, dược dán kín, niêm phong bởi các chữ ký ghi rõ họ tên Nguyễn Trần Đ, Lê H C và các hình dấu của Phòng KTHS Công an tỉnh Thanh Hóa (theo biên bản đóng gói, niêm phong và giao, nhận lại đối tượng giám định ngày 04/9/2023.
- 01 nắp nhựa màu trắng , đục 02 lỗ, một lỗ gắn đoạn ống thủy tinh dạng cóng, đầu ống hình bầu dục, đầu còn lại gắn đoạn ống nhựa màu vàng, một lỗ gắn đoạn ống nhựa dạng ống hút gồm 04 đoạn có màu hồng, xanh, cam, tím nối với nhau;
- 01 chai nhựa màu trắng, nắp màu đỏ, đục 02 lỗ, một lỗ gắn đoạn ống nhựa dạng ống hút gồm 02 đoạn có màu hồng và vàng gắn với nhau;
- 03 ống thủy tinh màu trắng, dạng cóng, đầu hình bầu dục; Tịch thu, nộp Ngân sách Nhà nước:
- 01 điện thoại di động có nhãn hiệu Galaxy A13 màu đen, số IMEil: 352469851473232, IMEi2 357132371473232, gắn sim số 0866.162.xxx của Đinh Văn T;
- 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu đen, số IMEi1: 867241586307243, IMEi2: 867241586307250, gắn sim số 0855.032.xxx và sim số 0332.641.xxx của Trần Văn L;
- 01 điện thoại di động có nhãn hiệu Masstel màu đen, số IMEi1: 35804847060601, IMEi2 358044847060619, gắn sim số 0777.452.xxx của Nguyễn Việt H;
- Số tiền 950.000đ từ hành vi phạm tội của các bị cáo.
* Truy thu số tiền của Đinh Văn T là 500.000đ; Trần Văn L là 370.000đ là khoản thu lợi bất chính từ việc phạm tội vào ngày 23/8/2023 của các bị cáo, nộp Ngân sách Nhà nước.
* Trả lại cho chủ sở hữu anh Nguyễn Việt H, số tiền 100.000đ.
Các bị cáo không có ý kiến tranh luận với VKS, các bị cáo đều đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Tại phiên tòa, các bị cáo Đinh Văn T và Trần Văn L khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội: Ngày 23/8/2023, T đã thực hiện hành vi bán cho H 01 gói ma túy loại Methamphetamine, giá 500.000đ; L bán cho H 01 gói heroine giá 370.000đ. Số ma túy này H và P đã sử dụng hết nên không có cơ sở để xác định khối lượng các chất ma túy. Ngày 29/8/2023, T bán cho H 0,019g Methamphetamine giá 500.000đ. Sau đó, T gọi L đến nhà đưa cho L 400.000đ đi mua 0,007g heroine về bán cho H. T được H đưa 1.000.000đ. Ngoài ra, T còn tàng trữ 3,130g (Ba phẩy một ba gam) Methamphetamine để sử dụng và để bán, L bán số ma túy 0,007g heroine cho H. Như vậy, trong khoảng thời gian từ ngày 23/8/2023 đến ngày 29/8/2023, Đinh Văn T và Trần Văn L đã hai lần thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy cho H.
Tại phiên tòa, lời khai của các bị cáo hoàn toàn phù hợp với các lời khai tại Cơ quan điều tra, biên bản khám xét, biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu, lời khai của người liên quan, người làm chứng, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Khối lượng chất ma túy làm căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bị cáo Đinh Văn T là 3,156g (gồm 3,149g Methamphetamine và 0,007g heroinne), Trần Văn L là 0,007g heroine, nên các bị cáo phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 BLHS như nội dung cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân huyện S đã truy tố là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[2] Các bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, các bị cáo nhận thức rõ về hành vi mua bán chất ma túy là vi phạm pháp luật, nhưng các bị cáo vẫn cố ý thực hiện.
[3] Xét vị trí, vai trò của các bị cáo: Trong vụ án này, các bị cáo phạm tội với vai trò đồng phạm giản đơn. Trong đó, T là người trực tiếp thực hiện hành vi mua ma túy loại Methamphetamine để sử dụng và để bán. Ngoài ra, T cùng L mua heroine về để bán cho H. Do vậy, bị cáo T giữ vai trò thứ nhất trong vụ án, bị cáo L giữ vị trí vai trò thứ hai trong vụ án.
[4] Xét tính chất, mức độ phạm tội: Hành vi của các bị cáo có tính chất và mức độ rất nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về việc quản lý các chất ma túy, gây mất trật tự tại địa phương, gây tâm lý hoang mang cho quần chúng nhân dân. Ngoài ra, bị cáo Đinh Văn T có 01 tiền án nhưng chưa được xóa án tích, nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học để sửa chữa, khắc phục sai lầm, tu dưỡng, rèn luyện bản thân mà lại tiếp tục phạm tội. Lần phạm tội này của bị cáo T thuộc trường hợp tái phạm theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS.
[5] Xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
8 - Về nhân thân: Bị cáo Đinh Văn T có nhân thân xấu.
- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: bị cáo T phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là “tái phạm” theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.
- Về tình tiết giảm nhẹ: Các bị cáo Đinh Văn T và Trần Văn L phạm tội thuộc trường hợp rất nghiêm trọng. Sau khi phạm tội, các bị cáo đã tự thú về hành vi phạm tội; tại Cơ quan Điều tra và tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên các bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm r, s khoản 1 Điều 51 của BLHS.
[6] Hình phạt bổ sung: không áp dụng hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 251 của BLHS đối với các bị cáo.
[7] Từ những căn cứ nêu trên: HĐXX xét thấy, cần thiết phải áp dụng Điều 38 của BLHS có mức hình phạt nghiêm khắc, tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội đối với các bị cáo, cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian dài mới có tác dụng giáo dục các bị cáo thành công dân biết tôn trọng pháp luật. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt, HĐXX căn cứ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để giảm cho các bị cáo một phần hình phạt, là thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.
[8] Về xử lý vật chứng:
* Cần tịch thu tiêu hủy, gồm: Toàn bộ vỏ bao gói mở niêm phong và số tang vật còn lại sau khi giám định được niêm phong trong 01 phong bì niêm phong mẫu vật do Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa phát hành, dược dán kín, niêm phong bởi các chữ ký ghi rõ họ tên Nguyễn Trần Đ, Lê H C và các hình dấu của Phòng KTHS Công an tỉnh Thanh Hóa (theo biên bản đóng gói, niêm phong và giao, nhận lại đối tượng giám định ngày 04/9/2023); 01 nắp nhựa màu trắng , đục 02 lỗ, một lỗ gắn đoạn ống thủy tinh dạng cóng, đầu ống hình bầu dục, đầu còn lại gắn đoạn ống nhựa màu vàng, một lỗ gắn đoạn ống nhựa dạng ống hút gồm 04 đoạn có màu hồng, xanh, cam, tím nối với nhau; 01 chai nhựa màu trắng, nắp màu đỏ, đục 02 lỗ, một lỗ gắn đoạn ống nhựa dạng ống hút gồm 02 đoạn có màu hồng và vàng gắn với nhau; 03 ống thủy tinh màu trắng, dạng cóng, đầu hình bầu dục;
* Tịch thu, nộp Ngân sách Nhà nước:
- 01 điện thoại di động có nhãn hiệu Galaxy A13 màu đen, số IMEil:
352469851473232, IMEi2 357132371473232, gắn sim số 0866.162.xxx của Đinh Văn T;
- 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu đen, số IMEi1: 867241586307243, IMEi2: 867241586307250, gắn sim số 0855.032.xxx và sim số 0332.641.xxx của Trần Văn L;
- 01 điện thoại di động có nhãn hiệu Masstel màu đen, số IMEi1: 35804847060601, IMEi2 358044847060619, gắn sim số 0777.452.xxx của Nguyễn Việt H;
- Số tiền 950.000đ từ hành vi phạm tội của các bị cáo (theo ủy nhiệm chi chuyển khoản tiền mặt tại Ngân hàng, lập ngày 25/12/2023).
* Truy thu của Đinh Văn T số tiền 500.000đ; Trần Văn L là 370.000đ là khoản thu lợi bất chính từ việc phạm tội vào ngày 23/8/2023 của các bị cáo, nộp Ngân sách Nhà nước.
* Trả lại cho chủ sở hữu Nguyễn Việt H số tiền 100.000đ.
[9] Về tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử: đều thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục và căn cứ theo quy định tại các Điều 37; Điều 42 của Bộ luật tố tụng hình sự.
[10] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
* Căn cứ vào: điểm b khoản 2 Điều 251; Điều 38; Điều 17; Điều 58; điểm r, s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự (đối với bị cáo Đinh Văn T).
- điểm b khoản 2 Điều 251; Điều 38; Điều 17; Điều 58; điểm r, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự (đối với bị cáo Trần Văn L)
* Tuyên bố: Các bị cáo Đinh Văn T, Trần Văn L phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
* Xử phạt:
- Bị cáo Đinh Văn T 08 (tám) năm 06 (sáu) tháng tù; thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ (29/8/2023).
- Bị cáo Trần Văn L 07 (bảy) năm tù; thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ (29/8/2023).
* Xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 BLHS và khoản 1, khoản 2, điểm a khoản 3 Điều xxx BLTTHS:
Tịch thu tiêu hủy gồm:
- Toàn bộ vỏ bao gói mở niêm phong và số tang vật còn lại sau khi giám định được niêm phong trong 01 phong bì niêm phong mẫu vật do Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa phát hành, dược dán kín, niêm phong bởi các chữ ký ghi rõ họ tên Nguyễn Trần Đ, Lê H C và các hình dấu của Phòng KTHS Công an tỉnh Thanh Hóa (theo biên bản đóng gói, niêm phong và giao, nhận lại đối tượng giám định ngày 04/9/2023).
- 01 nắp nhựa màu trắng , đục 02 lỗ, một lỗ gắn đoạn ống thủy tinh dạng cóng, đầu ống hình bầu dục, đầu còn lại gắn đoạn ống nhựa màu vàng, một lỗ gắn đoạn ống nhựa dạng ống hút gồm 04 đoạn có màu hồng, xanh, cam, tím nối với nhau;
- 01 chai nhựa màu trắng, nắp màu đỏ, đục 02 lỗ, một lỗ gắn đoạn ống nhựa dạng ống hút gồm 02 đoạn có màu hồng và vàng gắn với nhau;
- 03 ống thủy tinh màu trắng, dạng cóng, đầu hình bầu dục; Tịch thu, nộp Ngân sách Nhà nước:
- 01 điện thoại di động có nhãn hiệu Galaxy A13 màu đen, số IMEil: 352469851473232, IMEi2 357132371473232, gắn sim số 0866.162.xxx của Đinh Văn T;
- 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu đen, số IMEi1: 867241586307243, IMEi2: 867241586307250, gắn sim số 0855.032.xxx và sim số 0332.641.xxx của Trần Văn L;
- 01 điện thoại di động có nhãn hiệu Masstel màu đen, số IMEi1: 35804847060601, IMEi2 358044847060619, gắn sim số 0777.452.xxx của Nguyễn Việt H;
- Số tiền 950.000đ (theo ủy nhiệm chi chuyển khoản tiền mặt tại Ngân hàng, lập ngày 25/12/2023).
(Theo biên bản giao, nhận đồ vật, tài liệu, vật chứng ngày 25/12/2023 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện S và Chi cục Thi hành án dân sự huyện S và Ủy nhiệm chi chuyển khoản, chuyển tiền điện tử lập ngày 25/12/2023 tại Kho bạc Nhà nước huyện S, tỉnh Thanh Hóa).
* Truy thu số tiền của Đinh Văn T là 500.000đ; Trần Văn L là 370.000đ là khoản thu lợi bất chính từ việc phạm tội vào ngày 23/8/2023 của các bị cáo, nộp Ngân sách Nhà nước.
* Trả lại số tiền 100.000đ cho Nguyễn Việt H (theo Ủy nhiệm chi chuyển khoản, chuyển tiền điện tử lập ngày 25/12/2023 tại Kho bạc Nhà nước huyện S, tỉnh Thanh Hóa).
* Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 và danh mục án phí, lệ phí ban hành kèm theo Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016: buộc mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí HSST.
* Quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 BLTTHS, các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.
Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 03/2024/HS-ST
Số hiệu: | 03/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Nga Sơn - Thanh Hoá |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 16/01/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về