Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 03/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 03/2021/HS-ST NGÀY 15/11/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 15 tháng 11 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Điện Biên đã tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 05/2021/TLST-HS ngày 14 tháng 10 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử  số: 05/2021/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 11 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Sùng A H (tên gọi khác: Không), sinh ngày 11/9/2003, tại tỉnh Điện Biên. Nơi cư trú: Bản C, xã X, huyện Đ, tỉnh Điện Biên; nghề nghiệp: Nông nghiệp; trình độ văn hóa: 5/12; dân tộc: Mông; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Sùng Nhìa L, sinh năm 1969 và con bà Và Thị X, sinh năm 1979; bị cáo chưa có vợ; Năm 2020 bị cáo sống chung như vợ chồng với Lầu Thị S, sinh năm: 2003 và có 01 con chung, sinh năm 2021; tiền án: Không, tiền sự: Không; Nhân thân: Chưa bị kết án và chưa bị xử lý vi phạm hành chính; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 31/7/2021, tạm giam từ ngày 02/8/2021 tại Trại tạm giam Công an tỉnh Điện Biên cho đến nay (có mặt tại phiên tòa).

- Người đại diện hợp pháp của bị cáo: Bà Và Thị X, sinh năm: 1979 (là Mẹ đẻ của bị cáo); địa chỉ: Bản C, xã N, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên (vắng mặt tại phiên tòa).

- Người đại diện theo ủy quyền của bà Và Thị X: Ông Và A D, sinh năm: 1991 (là cậu ruột của bị cáo); địa chỉ: Bản C, xã N, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên  (vắng  mặt  tại  phiên  tòa,  có  đơn  đề  nghị  xét  xử  vắng  mặt  đề  ngày 11/11/2021).

- Người bào chữa cho bị cáo: Bà Triệu Thị H, Luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Điện Biên (có mặt tại phiên tòa).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

+ Bà Sùng Thị C; sinh năm: 1986; địa chỉ: Bản X A, xã X, huyện Đ, tỉnh Điện  Biên  (vắng  mặt  tại  phiên  tòa,  có  đơn  xin  xét  xử  vắng  mặt  đề  ngày 12/11/2021);

+ Ông Sùng A T, sinh năm: 1992; địa chỉ: Bản X C, xã X, huyện Đ, tỉnh Điện  Biên  (vắng  mặt  tại  phiên  tòa,  có  đơn  xin  xét  xử  vắng  mặt  đề  ngày 12/11/2021).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ ngày 26/7/2021, Vàng A C1 gọi cho Sùng A H qua ứng dụng messenger để thuê H vận chuyển 02 kg ma túy đá từ xã X, huyện Đ đến xã Xuân Lao, huyện Mường Ảng để bán cho 01 người khách của C1 với giá 95.000.000 đồng/01kg. C1 thỏa thuận trả tiền công cho H là 5.000.000 đồng.

Trưa ngày 27/7/2021, C1 tiếp tục gọi cho H qua ứng dụng messenger, bảo H đến bản X B, xã X, huyện Đ gặp 02 người đàn ông dân tộc Mông - Lào để nhận 02 kg ma túy đá. H đã đi bộ đến nhà Sùng Thị C ở bản X A, xã X, huyện Đ mượn xe máy biển kiểm soát 27B1-494.10, sau đó điều khiển xe máy đến bản X B, xã X gặp 02 người đàn ông dân tộc Mông - Lào, H đã nhận được 02 kg ma túy đá đựng trong một bao tải xác rắn màu cam, H mang về và cất giấu trong vườn nhà H. Khoảng 16 giờ ngày 27/7/2021, H sang nhà Lầu A D trú tại bản X A, xã X, huyện Đ rủ D cùng vận chuyển 02 kg ma túy đá từ xã X đến xã Xuân Lao để bán. H và D thỏa thuận người trực tiếp vận chuyển ma túy sẽ được 3.000.000 đồng tiền công, còn người đi trước kiểm tra đường đi sẽ được 2.000.000 đồng tiền công.

Khoảng 8 giờ sáng ngày 31/7/2021 một người đàn ông không biết tên và địa chỉ gọi điện thoại cho Sùng A H bảo H mang 02 kg ma túy đá đến bán cho người đàn ông vào khoảng 16 giờ cùng ngày tại khu vực xã Xuân Lao, huyện Mường Ảng. Khoảng 15 giờ cùng ngày, H lấy bao tải xác rắn màu cam bên trong có chứa 02 kg ma túy đá mang đến khu vực cuối bản C, xã X cất giấu vào bụi cây ven đường rồi vào nhà Sùng Thị C để mượn xe máy biển kiểm soát 27B1-494.10 điều khiển đến nhà Lầu A D cùng đi lấy ma túy để bán. H và D đi đến khu vực cuối bản C, xã X lấy 02 kg ma túy đá, D là người trực tiếp điều kiển xe máy chở một bao tải xác rắn màu cam bên trong chứa 02 kg ma túy đá, còn H điều khiển xe máy đi trước kiểm tra đường, đi đến khu vực xã Xuân Lao thì gặp một người đàn ông không biết tên, tuổi, địa chỉ, bảo H mang ma túy đến khu vực xã Chiềng Đông, huyện Tuần Giáo để trao đổi mua bán. D và H tiếp tục đi đến khu vực xã Búng Lao, huyện Mường Ảng thì D giao 02 kg ma túy đá cho H mang đi đến điểm hẹn còn D đứng đợi H ở ven đường. H điều khiển xe máy chở bao tải xác rắn màu cam bên trong chứa 02 kg ma túy đá đến khu vực bản Vánh 1, xã Chiềng Đông, huyện Tuần Giáo chưa kịp bán ma túy thì bị cơ quan Công an phát hiện bắt giữ và tịch thu toàn bộ ma túy, còn người mua ma túy điều khiển xe máy bỏ chạy thoát.

Tại Bản Kết luận giám định số 958/GĐ-PC09 ngày 14/8/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Điện Biên kết luận:

- Khối lượng vật chứng thu giữ của Sùng A H là 1.999,58 gam.

- 02 (hai) mẫu tinh thể màu trắng ký hiệu M1A, M2A được trích ra từ vật chứng thu giữ của Sùng A H gửi giám định là chất ma túy: Loại Methamphetamine.

Bản Cáo trạng số 73/CT-VKS-P1 ngày 13/10/2021 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Điện Biên truy tố ra trước Toà án nhân dân tỉnh Điện Biên để xét xử Sùng A H về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 4 Điều 251 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa sơ thẩm, Kiểm sát viên, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Điện Biên, giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Sùng A H phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm b khoản 4 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 5 Điều 91, khoản 1 Điều 101, Điều 38 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Sùng A H 17 năm tù đến 18 năm tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 251 của Bộ luật Hình sự.

Về vật chứng vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a, c khoản 1; khoản 2  Điều 47 của Bộ luật Hình sự và  điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

Về án phí: Căn cứ Điều 135, Điều 136 của Bộ luậtTố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Sùng A H

Người bào chữa cho bị cáo nhất trí với tội danh và điều luật áp dụng mà VKSND tỉnh Điện Biên đã truy tố đối với bị cáo Sùng A H. Người bào chữa đề nghị Hội đồng xét xử xem xét trong suốt quá trình tố tụng và tại phiên tòa bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; Về nhân thân bị cáo phạm tội khi chưa đủ 18 tuổi nên nhận thức về pháp luật còn hạn chế, bị cáo sinh sống tại vùng có hoàn cảnh kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn.

Người bào chữa đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS, áp dụng Điều 91 của Bộ luật Hình sự về nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, xem xét nhân thân, nguyên nhân, hoàn cảnh phạm tội để quyết định mức hình phạt tù có thời hạn của khung hình phạt quy định tại điểm b khoản 4 Điều 251 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo; không áp dụng hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 251 của Bộ luật Hình sự; căn cứ Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội để miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA, số loại Wave RSX, màu sơn trắng xám đen, biển kiểm soát 27B1-494.10, H khai mượn của bà Sùng Thị C, khi mượn xe H không nói cho bà C biết là đi đâu, làm việc gì, bà C không biết việc H mượn xe máy để đi mua bán ma túy. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét trả lại cho bà Sùng Thị C chiếc xe máy theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa bị cáo Sùng A H đã đủ 18 tuổi, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tại lời nói sau cùng bị cáo Sùng A H đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để sớm được trở về với gia đình, hòa nhập cộng đồng và cải tạo thành công dân tốt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Qua tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo Sùng A H khai nhận: Khoảng 11 giờ ngày 26/7/2021, Vàng A C1 gọi cho Sùng A H qua ứng dụng messenger để thuê H vận chuyển 02 kg ma túy đá từ xã X, huyện Đ đến xã Xuân Lao, huyện Mường Ảng để bán cho 01 người khách của C1. C1 thỏa thuận trả tiền công cho H là 5.000.000 đồng.

Trưa ngày 27/7/2021, C1 tiếp tục gọi cho H bảo H đến bản X B, xã X, huyện Đ gặp 02 người đàn ông dân tộc Mông - Lào để nhận 02 kg ma túy đá. H đã đi bộ đến nhà Sùng Thị C mượn xe máy biển kiểm soát 27B1-494.10, sau đó điều khiển xe máy đến bản X B, xã X gặp 02 người đàn ông dân tộc Mông - Lào và nhận được 02 kg ma túy đá đựng trong một bao tải xác rắn màu cam, H mang về và cất giấu trong vườn nhà H. Khoảng 16 giờ ngày 27/7/2021, H sang nhà Lầu A D rủ D cùng vận chuyển 02 kg ma túy đá từ xã X đến xã Xuân Lao để bán. H và D thỏa thuận người trực tiếp vận chuyển ma túy sẽ được 3.000.000 đồng tiền công, còn người đi trước kiểm tra đường đi sẽ được 2.000.000 đồng tiền công.

Khoảng 8 giờ sáng ngày 31/7/2021, một người đàn ông không biết tên và địa chỉ gọi điện thoại cho Sùng A H hẹn H vào khoảng 16 giờ cùng ngày mang 02 kg ma túy đá đến khu vực xã Xuân Lao, huyện Mường Ảng để trao đổi mua bán. Khoảng 15 giờ ngày 31/7/2021, H lấy bao tải xác rắn màu cam bên trong có chứa 02 kg ma túy đá mang đến khu vực cuối bản C, xã X cất giấu vào bụi cây ven đường rồi vào nhà Sùng Thị C để mượn xe máy biển kiểm soát 27B1-494.10 điều khiển đến nhà Lầu A D, sau đó H và D đi lấy 02 kg ma túy đá đã cất giấu trước đó mang đi bán, D là người trực tiếp điều kiển xe máy chở một bao tải bên trong chứa 02 kg ma túy đá, còn H điều khiển xe máy đi trước kiểm tra đường, đi đến khu vực xã Xuân Lao thì gặp một người đàn ông bảo H mang ma túy đến khu vực xã Chiềng Đông, huyện Tuần Giáo để trao đổi mua bán. D và H tiếp tục đi đến khu vực xã Búng Lao, huyện Mường Ảng thì D giao 02 kg ma túy đá cho H đi bán còn D đứng đợi H ở ven đường. H điều khiển xe máy chở bao tải xác rắn màu cam bên trong chứa 02 kg ma túy đá đến khu vực bản Vánh 1, xã Chiềng Đông, huyện Tuần Giáo chưa kịp bán ma túy thì bị cơ quan Công an phát hiện bắt quả tang và thu giữ của Sùng A H 1.999,58 gam Methamphetamine, còn người mua ma túy điều khiển xe máy bỏ chạy thoát.

Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra và lời khai của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 19 giờ 30 phút ngày 31/7/2021, Biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ ngày 31/7/2021 và Biên bản mở niêm phong, cân xác định khối lượng, lấy mẫu giám định và niêm phong lại đồ vật tài liệu bị tạm giữ, phù hợp với Kết luận giám định, bản Cáo trạng và các tài liệu C1ng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Từ những phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử đã đủ cơ sở kết luận hành vi mua bán trái phép khối lượng 1.999,58 gam Methamphetamine của bị cáo Sùng A H đã vi phạm tình tiết định khung được quy định tại điểm b khoản 4 Điều 251 của Bộ luật Hình sự. Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân tỉnh Điện Biên truy tố đối với bị cáo Sùng A H về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 4 Điều 251 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, bị cáo không bị oan sai.

[2] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo Sùng A H là đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, xâm phạm trật tự an toàn xã hội. Mặt khác, ma túy là nguyên nhân phát sinh các tệ nạn xã hội và tội phạm khác. Hành vi mua bán trái phép chất ma tuý của bị cáo Sùng A H là đặc biệt nghiêm trọng. Nguyên nhân xuất phát từ động cơ, mục đích mua bán trái phép chất ma túy của bị cáo là để lấy tiền công. Bị cáo phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp; khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự.

[3] Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với bị cáo, Hội đồng xét xử thấy rằng:

Về nhân thân: Bị cáo Sùng A H học hết lớp 5/12 thì bỏ học ở nhà làm nông nghiệp, năm 2020 bị cáo sống chung như vợ chồng với chị Lầu Thị S, sinh năm: 2003; địa chỉ: Bản C, xã X, huyện Đ, tỉnh Điện Biên và 01 con chung, sinh năm 2021. Chưa bị kết án và chưa bị xử lý vi phạm hành chính.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiện hình sự: Bị cáo Sùng A H không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn, hối cải về hành vi phạm tội của mình. Do đó, cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Về hình phạt: Bị cáo Sùng A H phạm tội thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng, mua bán ma túy với khối lượng lớn. Tuy nhiên, bị cáo là người dân tộc thiểu số, sinh sống ở vùng có hoàn cảnh kinh tế xã hội khó khăn, khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo chưa đủ 18 tuổi (17 tuổi 10 tháng 20 ngày) nên hiểu biết pháp luật còn hạn chế. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy cần căn cứ Điều 91 và Điều 101 của Bộ luật Hình sự về chính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội để đưa ra hình phạt đối với bị cáo Sùng A H.

Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Điện Biên và Người bào chữa là có căn cứ nên được chấp nhận.

[4] Về hình phạt bổ sung:

Theo quy định tại Khoản 5 Điều 251 của Bộ luật Hình sự:

Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức  vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”.

Tuy nhiên, theo các tài liệu, C1ng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy, nghề nghiệp của bị cáo là làm nông nghiệp, thu nhập không ổn định, không có tài sản riêng có giá trị. Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Do vậy, đề nghị của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa và người bào chữa cho bị cáo là có căn cứ để chấp nhận.

[5] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an tỉnh Điện Biên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân nhân tỉnh Điện Biên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện theo đúng quy định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người bào chữa cho bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp, phù hợp với các quy định của pháp luật.

[6] Về vật chứng vụ án: Theo quy định tại điểm a, c khoản 1; khoản 2 Điều 47 của Bộ luật Hình sự và điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, số vật chứng đã thu giữ của bị cáo cần xử lý như sau:

- Đối vật chứng là ma túy, sau khi trích mẫu gửi giám định còn lại: 1.974,06 gam Methamphetamine, đây là vật Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với vật chứng là 02 túi nilon màu vàng; các mảnh nilon gói chất rắn dạng tinh thể màu trắng; 01 túi nilon màu xanh, đã cũ; 01 bao tải xác rắn màu cam, đã cũ là vật không có giá trị cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 điện thoại di động màn hình cảm ứng, màu xanh, nhãn hiệu Redmi, đã qua sử dụng là công cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội cần tịch thu sung ngân sách Nhà nước.

- Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA, số loại Wave RSX, biển kiểm soát 27B1-494.10, đây là chiếc xe máy bị cáo Sùng A H đã mượn của bà Sùng Thị C; địa chỉ: Bản X A, xã X, huyện Đ, tỉnh Điện Biên để sử dụng trái phép làm phương tiện phạm tội, bà C không biết mục đích sử dụng chiếc xe máy của bị cáo là gì nên cần trả lại chiếc xe máy nêu trên cho bà Sùng Thị C.

[7] Về án phí: Căn cứ Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự,điểm đ Khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Sùng A H.

[8] Về các vấn đề khác:

Theo lời khai của bị cáo Sùng A H trong vụ án này bị cáo đã rủ Lầu A D, địa chỉ: Bản X A, xã X, huyện Đ, tỉnh Điện Biên cùng mang ma túy đi bán. Cơ quan điều tra đã tiến hành điều tra xác minh nhưng hiện đối tượng này không có mặt tại địa phươngnên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết trong vụ án này.

Đối với Vàng A C1 - người thuê bị cáo mang ma túy đi bán, hai người đàn ông dân tộc Mông - Lào giao 02 kg ma tuý cho bị cáo ngày 31/7/2021 để đi bán và người đàn ông mua ma túy do bị cáo không biết rõ nhân thân lai lịch, địa chỉ, quá trình điều tra không đủ điều kiện, điều tra xác minh làm rõ, do vậy Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết trong vụ án này.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 4 Điều 251 của Bộ luật Hình sự.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Sùng A H phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt: Áp dụng điểm b khoản 4 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 5 Điều 91, khoản 1 Điều 101, Điều 38 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Sùng A H 17 (mười bảy) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ (31/7/2021).

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1; khoản 2  Điều 47 của Bộ luật Hình sự và điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

* Tịch thu tiêu hủy:

- 1.974,06 gam Methamphetamine là vật chứng còn lại sau khi giám định.

- 02 túi nilon màu vàng; các mảnh nilon gói chất rắn dạng tinh thể màu trắng; 01 túi nilon màu xanh, đã cũ; 01 bao tải xác rắn màu cam, đã cũ.

* Tịch thu sung ngân sách Nhà nước: 01 điện thoại di động màn hình cảm ứng, màu xanh, nhãn hiệu Redmi, đã qua sử dụng.

* Trả lại cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Sùng Thị C: 01 chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA, số loại Wave RSX, màu sơn trắng xám đen, biển kiểm soát 27B1-494.10, số khung: RLHJC4321AY262676, số máy: JC43E - 5740504, dung tích xi lanh: 109, số chỗ ngồi 02, loại xe hai bánh từ 50-175cm3, xe cũ đã, qua sử dụng.

(Theo Biên bản giao, nhận vật chứng giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Điện Biên và Cục Thi hành án dân sự tỉnh Điện Biên ngày 13/10/2021).

4. Về án phí: Căn cứ Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Sùng A H.

5. Về quyền kháng cáo đối với bản án: Căn cứ các Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, bị cáo có quyền kháng cáo Bản án lên Tòa án nhân dân Cấp cao tại Hà Nội trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 15/11/2021). Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo phần bản án liên quan trực tiếp đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình lên Tòa án nhân dân Cấp cao tại Hà Nội trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được giao cho họ hoặc được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

354
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 03/2021/HS-ST

Số hiệu:03/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về