Bản án về tội mua bán trái phép chất ma số 60/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LAI CHÂUTỈNH LAI CHÂU

BẢN ÁN 60/2022/HS-ST NGÀY 24/08/2022 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA

Ngày 24 tháng 8 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu, Tòa án nhân dân thành phố Lai Châu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 59/2022/HSST ngày 02 tháng 8 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 61/2022/QĐXXST-HS ngày 11/8/2022 đối với bị cáo:

1. Họ và tên: Vàng Văn X; Tên gọi khác: Vàng Văn S; Giới tính: nam; Sinh năm: 1976, tại tỉnh Lai Châu; Nơi ĐKHKTT: bản S, xã S, thành phố C, tỉnh Lai Châu; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 0/12; Dân tộc: Giáy; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: không; Con ông: Vàng Văn H (đã chết) và con bà Đèo Thị T (đã chết); Vợ: Vàng Thị P (sinh năm 1974), con: có 02 con, con lớn sinh năm 1995, con nhỏ sinh năm 1996; Tiền án, tiền sự: không.

Nhân thân: Theo bản án số 01/2010/HSST ngày 02/11/2010 của TAND thị xã Lai Châu Vàng Văn X bị xử phạt 02 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy, và 02 năm tù về tội Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy.

Theo bản án số 57/2016/HSST ngày 28/9/2016 của TAND thành phố Lai Châu bị cáo X bị xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy. Ngày 12/9/2018 bị cáo chấp hành xong hình phạt.

Đều đã được xóa án tích Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 20/4/2022 tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Lai Châu cho đến nay. Có mặt tại phiên tòa.

2. Họ và tên: Hò Văn D; Tên gọi khác: Không; Giới tính: nam; Sinh năm: 1987, tại tỉnh Lai Châu; Nơi ĐKHKTT: bản S, xã S, thành phố C, tỉnh Lai Châu; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 9/12; Dân tộc: Giáy; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: không; Con ông: Hò Văn H (đã chết) và con bà Thèn Thị L (sinh năm 1962); Vợ, con: chưa có; Tiền án, tiền sự: không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 20/4/2022 đến ngày 26/4/2022 được áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú tại xã S, thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu cho đến nay. Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Khoảng 13 giờ 00 phút, ngày 20/4/2022 tại khu vực cầu Tả Lèng thuộc địa phận bản San Th, thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu, Hò Văn D đang tàng trữ 01 gói ma túy thì bị tổ công tác của Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về kinh tế và ma túy Công an thành phố Lai Châu phát hiện và bắt quả tang. D khai nhận gói ma túy được gói bên ngoài bằng nilon màu trắng, bên trong là chất bột màu trắng là heroine, D tàng trữ để sử dụng. Nguồn gốc gói ma túy này là D mua của ông Vàng Văn X ở bản S, xã S, thành phố C với giá 100.000 đồng vào khoảng 12 giờ 30 phút cùng ngày.

Mở rộng điều tra vào hồi 15 giờ 00 phút cùng ngày 20/4/2022, Cơ quan điều tra Công an thành phố Lai Châu khám xét khẩn cấp người, đồ vật, nơi ở của Vàng Văn X tại địa chỉ trên. Kết quả X tự giác lấy dưới góc nền nhà vệ sinh và giao nộp cho Cơ quan điều tra 01 gói được gói bằng mảnh giấy màu trắng (loại giấy vệ sinh), bên trong có 04 gói đều được gói bằng nilon màu trắng, bên trong cùng đều là chất bột màu trắng. Sau đó X đi ra góc nhà, sát vách phòng ngủ lấy ra giao nộp 01 gói, được gói bên ngoài bằng nilon màu trắng, bên trong là mảnh nilon màu đen, trong cùng là chất bột màu trắng và số tiền 100.000 đồng (một trăm nghìn đồng). Số tiền này là X bán heroine cho D vào khoảng 12 giờ 30 phút ngày 20/4/2022 mà có. X khai nhận toàn bộ các gói chất bột màu trắng đó là heroine của X tàng trữ để sử dụng và bán.

Nguồn gốc số Heroine mà X có được là X mua của một người đàn ông không rõ lai lịch, địa chỉ tại chợ đêm San Th, thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu với giá 700.000 đồng vào ngày 16/4/2022. Sau khi mua được X chia thành 10 gói, cất giấu 01 gói ở góc nhà sát phòng ngủ, còn 09 gói cất giấu ở góc sàn nhà vệ sinh, từ ngày 17 đến ngày 20/4/2022 X đã lấy 04 gói ra sử dụng và bán cho D 01 gói.

Theo Kết luận giám định số 18/KLGĐ ngày 21/4/2022 của giám định tư pháp theo vụ việc Công an thành phố Lai Châu kết luận số chất bột khô màu trắng thu giữ của Hò Văn D có khối lượng 0,16 gam. Theo Kết luận giám định số 342/KL- KTHS ngày 22/4/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lai Châu kết luận: mẫu chất bột màu trắng gửi giám định là ma túy, loại Heroine.

Theo Kết luận giám định số 19/KLGĐ ngày 21/4/2022 của giám định tư pháp theo vụ việc Công an thành phố Lai Châu kết luận số chất bột khô màu trắng thu giữ của Vàng Văn X có khối lượng 15,95 gam. Theo Kết luận giám định số 343/KL- KTHS ngày 22/4/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lai Châu kết luận: mẫu chất bột màu trắng gửi giám định là ma túy, loại Heroin Quá trình điều tra Vàng Văn X, Hò Văn D thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như trên.

Các vấn đề khác của vụ án:

Đối với người đàn ông bán heroin cho Vàng Văn X, vì X không rõ lai lịch, địa chỉ việc mua bán không ai chứng kiến nên Cơ quan điều tra không có cơ sở xác minh, điều tra làm rõ đối với đối tượng này.

Bản cáo trạng số 41/CT - VKSTP ngày 01/8/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lai Châu đã truy tố Vàng Văn X về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm i khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự, truy tố bị cáo Hò Văn D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về các kết luận giám định và bản cáo trạng nêu trên.

Tại phiên tòa, vị đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh và đề nghị Hội đồng xét xử:

Đối với bị cáo Vàng Văn X áp dụng điểm i khoản 2 Điều 251Bộ luật hình sự, điểm s khoản 1Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Vàng Văn X từ 08 năm đến 09 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 20/4/2022;

Đối với bị cáo Hò Văn D áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự, điểm s khoản 1Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Hò Văn D từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Bị cáo được khấu trừ 06 ngày tạm giữ. Thời hạn tù tình từ ngày bị cáo vào trại chấp hành án.

Áp dụng khoản 5 Điều 249, khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự đề nghị miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho các bị cáo;

Biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng: đề nghị áp dụng điểm a, b, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a, b, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu, tiêu hủy 01 mảnh nilon màu trắng, 01 vỏ phong bì niêm phong trong quá trình bắt quả tang Hò Văn D.

Tịch thu, tiêu hủy 15,4 gam Heroine (còn lại sau khi đã trích gửi giám định 0,55 gam, không hoàn lại mẫu vật); 01 mảnh giấy màu trắng (loại giấy vệ sinh), 04 mảnh nilon màu trắng; 01 mảnh nilon màu trắng, 01 mảnh nilon màu đen; 01 vỏ phong bì niêm phong trong quá trình khám xét khẩn cấp Vàng Văn X.

Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 100.000 đồng Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo Vàng Văn X, Hò Văn D không có ý kiến tranh luận đối với quan điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lai Châu.

Tại lời nói sau cùng bị cáo X, D thể hiện việc nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Lai Châu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lai Châu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội và tội danh:

Trên cơ sở lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang và các vật chứng thu giữ được, có đủ cơ sở để khẳng định: Vào khoảng 12 giờ 30 phút ngày 20/4/2022 tại nơi ở của mình tại bản San Th, xã San Th, thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu, Vàng Văn X đã bán cho Hò Văn D 0,16 gam heroine với giá 100.000 đồng. Trên đường về để sử dụng ma túy, khi D đi đến khu vực cầu Tả Lèng, thuộc bản San Th, xã San Th, thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu thì bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Lai Châu phát hiện bắt quả tang cùng vật chứng.

Mở rộng điều tra tiến hành khám xét khẩn cấp người, đồ vật, nơi ở của Vàng Văn X tại địa chỉ trên vào hồi 15 giờ 00 phút cùng ngày 20/4/2022, X đã tự giác giao nộp 15,95 gam heroine mà X đang tàng trữ để sử dụng và bán cho Cơ quan điều tra Công an thành phố Lai Châu. Như vậy, tổng khối lượng heroine mà X phải chịu trách nhiệm hình sự là 16,11 gam.

Bị cáo Vàng Văn X, Hò Văn D là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc mua bán, tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật.

Hành vi đó là nguy hiểm cho xã hội, có tính chất rất nghiêm trọng, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma tuý của Nhà nước, gây mất trật tự trị an trên địa bàn. Ý thức được điều đó nhưng để thỏa mãn nhu cầu nghiện hút và tiêu sài của bản thân các bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội.

Như vậy, có đủ cơ sở để khẳng định: Hành vi của bị cáo Vàng Văn X đã cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm i khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự, hành vi của bị cáo Hò Văn D cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Điều 249. Tàng trữ trái phép chất ma túy “1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm… c, Heroine…có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 5 gam.

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng…”

Điều 251. Mua bán trái phép chất ma túy

“1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

i, Heroine…có khối lượng từ 05 gam đến dưới 30 gam;

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng…” Vì vậy, quan điểm xử lý trách nhiệm hình sự của vị đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là hoàn toàn đúng pháp luật.

[3] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Về nhân thân: Bị cáo Hò Văn D có nhân thân tốt. Bị cáo Vàng Văn X trước lần phạm tội này bị cáo đã 02 lần bị Tòa án xét xử về tội liên quan đến ma túy và đều phải đi chấp hành án, chịu sự giáo dục, cải tạo nghiêm khắc nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học cho bản thân mà vẫn tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội.

Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa các bị cáo đều thành khẩn khai báo, Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng cho các bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Các bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự.

Trên cơ sở tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự xét thấy cần thiết phải cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để răn đe, giáo dục các bị cáo, cải tạo thành công dân có ích cho xã hội.

[4] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249, khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự các bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu chứng cứ và lời khai của các bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy các bị cáo là lao động tự do công việc và thu nhập không ổn định, không có tài sản riêng có giá trị để đảm bảo thi hành hình phạt bổ sung. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[5] Về vật chứng của vụ án:

Đối với 0,16 gam Heroine thu giữ của D và trích 0,55 gam heroine thu giữ của X để gửi đi giám định, Phòng giám định kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lai Châu không hoàn lại mẫu vật nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Đối với 01 mảnh nilon màu trắng, 01 vỏ phong bì niêm phong trong quá trình bắt quả tang Hò Văn D. 01 mảnh giấy màu trắng (loại giấy vệ sinh), 04 mảnh nilon màu trắng; 01 mảnh nilon màu trắng, 01 mảnh nilon màu đen; 01 vỏ phong bì niêm phong trong quá trình khám xét khẩn cấp Vàng Văn X. Đều là vật chứng liên quan đến tội phạm, là công cụ gói ma túy và là vật chứng không có giá trị nên cần tịch thu tiêu hủy theo điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự Đối với 15,4 gam Heroine (còn lại sau giám định) là chất Nhà nước cấm lưu hành nên tịch thu tiêu hủy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự Đôi với số tiền 100.000 đồng là tiền do phạm tội mà có nên tịch thu sung quỹ Nhà nước theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm b khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự [6] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm i khoản 2 Điều 251, Điều 38 Bộ luật hình sự, điểm s khoản 1 Điều 51Bộ luật hình sự đối với bị cáo Vàng Văn X;

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 38, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Hò Văn D;

Căn cứ khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; Khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án; Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Vàng Văn X phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”.

Bị cáo Hò Văn D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

2. Về hình phạt:

- Xử phạt bị cáo Vàng Văn X 09 (Chín) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 20/4/2022.

- Xử phạt bị cáo Hò Văn D 01 (Một) năm tù. Bị cáo được khấu trừ 06 ngày tạm giữ, còn phải chấp hành 11 (Mười một) tháng 24 (hai mươi tư) ngày tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo vào trại chấp hành án.

3. Về vật chứng của vụ án:

- Tịch thu, tiêu hủy 01 mảnh nilon màu trắng, 01 vỏ phong bì niêm phong trong quá trình bắt quả tang Hò Văn D.

- Tịch thu, tiêu hủy 15,4 gam Heroine (còn lại sau khi đã trích gửi giám định 0,55 gam, không hoàn lại mẫu vật); 01 mảnh giấy màu trắng (loại giấy vệ sinh), 04 mảnh nilon màu trắng; 01 mảnh nilon màu trắng, 01 mảnh nilon màu đen; 01 vỏ phong bì niêm phong trong quá trình khám xét khẩn cấp Vàng Văn X.

đồng)

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 100.000 đồng (Một trăm nghìn (Tình trạng vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng vào hồi 16 giờ 00 phút ngày 03/8/2022 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Lai Châu với Chi Cục thi hành án dân sự thành phố Lai Châu).

4. Về án phí: Mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân cấp trên trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

53
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma số 60/2022/HS-ST

Số hiệu:60/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Lai Châu - Lai Châu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:24/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về