Bản án về tội mua bán, tàng trữ, chứa chấp, tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy và tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng số 336/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HĐ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 336/2021/HS-ST NGÀY 28/12/2021 VỀ TỘI MUA BÁN, TÀNG TRỮ, CHỨA CHẤP, TỔ CHỨC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY VÀ TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP VŨ KHÍ QUÂN DỤNG

Mở phiên tòa công khai ngày 28 tháng 12 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận HĐ, Hà Nội xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 304/2021/TLST-HS ngày 08 tháng 11 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 352/2021/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 12 năm 2021 đối với bị cáo:

1. Trần Đình Đ, sinh năm 1987. Giới tính: Nam. Hộ khẩu thường trú: Khu II Hà Trì, phường HC, quận HĐ, Hà Nội. Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 12/12; Con ông Trần Đình N và bà Nguyễn Thị Đào Ng. Có vợ đã L hôn và có 01 con sinh năm 2006. Tiền sự: Không Tiền án: Bản án số 137/2010/HSST ngày 15/4/2010 của TAND quận HĐ, Hà Nội và bản án phúc thẩm số 596/2010/HSPT ngày 08/7/2010 của TAND thành phố Hà Nội xử phạt 12 năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 22/5/2018.

Nhân thân:

- Ngày 13/8/2018, Công an phường VQ, quận HĐ, Hà Nội xử phạt hành chính về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Ngày 25/7/2021, Công an quận HĐ, Hà Nội xử phạt hành chính về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy” (cùng trong vụ án).

Danh chỉ bản số 598 lập ngày 26/7/2021 tại Công an quận HĐ, thành phố Hà Nội. Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 15/7/2021. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 2 - Công an thành phố Hà Nội. Có mặt tại phiên tòa

2. Đỗ Tiến D (tức D Cà Chưa), sinh năm 1978. Giới tính: Nam. Hộ khẩu thường trú: số A, ngõ B, Yên Phúc, tổ C, phường PL, quận HĐ, Hà Nội. Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 9/12; Con ông Đỗ Hữu T và bà Đỗ Thị L (đều đã chết). Có vợ đã L hôn và 03 con (con lớn nhất sinh năm 1999, con nhỏ nhất sinh năm 2014). Tiền sự: Không.

Tiền án: Bản án số 92/HSST ngày 16/5/2017 của Tòa án nhân dân quận HĐ, Hà Nội xử phạt 24 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 04/11/2018.

Nhân thân:

+ Bản án sơ thẩm số 196/HSST ngày 01/9/1999 của Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tây và Bản án phúc thẩm số 2437 ngày 22/12/1999 của Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội xử phạt 05 năm tù, về tội “Giết người”. Đã chấp hành xong hình phạt tù ngày 09/11/2002.

+ Ngày 22/5/2011, Công an phường PL, quận HĐ, Hà Nội xử phạt vi phạm hành chính về hành vi Đánh nhau.

+ Ngày 28/3/2012, Công an huyện TT, Hà Nội xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”.

+ Ngày 11/5/2013, Công an phường PL, quận HĐ, Hà Nội xử phạt hành chính về hành vi “Tàng trữ chất ma túy trái phép”.

+ Ngày 25/7/2021, Công an quận HĐ, Hà Nội xử phạt hành chính về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy” (cùng trong vụ án).

+ Ngày 23/10/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận HĐ, Hà Nội khởi tố bị can về hành vi “Cố ý gây thương tích”. Viện kiểm sát nhân dân quận HĐ, Hà Nội Quyết định đình chỉ vụ án ngày 29/11/2021.

Danh chỉ bản số 599 lập ngày 23/7/2021 tại Công an quận HĐ, Hà Nội. Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 15/7/2021. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 2 - Công an thành phố Hà Nội. Có mặt tại phiên tòa

3. Nguyễn Ngọc L, sinh năm 1993. Giới tính: Nữ. Hộ khẩu thường trú: số A ĐLT, phường Ô, quận ĐĐ, Hà Nội. Nghề nghiệp: Lao động tự do. Trình độ văn hóa: 10/12. Con ông Nguyễn Đức Tr và bà Nguyễn Thị Ngọc Đ. Có 02 con (con lớn sinh năm 2018, con nhỏ sinh năm 2019). Tiền án, tiền sự: Không - Nhân thân:

+ Ngày 26/10/2012, Công an quận BĐ, Hà Nội xử phạt hành chính về hành vi “Tàng trữ công cụ hỗ trợ”.

+ Quyết định số 2337 ngày 31/01/2013 của UBND quận ĐĐ, Hà Nội đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc 24 tháng, quản lý sau cai nghiện 24 tháng. Chấp hành xong ngày 06/2/2016.

+ Ngày 14/4/2017, Công an phường NK, quận BĐ, Hà Nội xử phạt hành chính về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”.

+ Ngày 18/3/2018, Công an phường PL, quận ĐĐ, Hà Nội xử phạt hành chính về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”.

+ Ngày 10/01/2020, Công an tỉnh Phú Thọ xử phạt hành chính về hành vi “Tàng trữ chất ma túy trái phép”.

+ Ngày 25/7/2021, Công an quận HĐ, Hà Nội xử phạt hành chính về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy” (cùng trong vụ án).

Danh chỉ bản số 601 lập ngày 23/7/2021 tại Công an quận HĐ, Hà Nội. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 15/7/2021 đến ngày 23/7/2021 (09 ngày). Hiện tại ngoại. Có mặt tại phiên tòa.

4. Nguyễn Văn T, sinh năm 1984. Giới tính: Nam. Hộ khẩu thường trú: số A, tổ B, ngõ C, phố DL, phường VQ, quận HĐ, Hà Nội. Nghề nghiệp: Lao động tự do. Trình độ văn hóa: 12/12. Con ông Nguyễn Văn T và bà Đinh Thị H. Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân:

+ Ngày 28/3/2012, Công an huyện TT, Hà Nội xử phạt hành chính về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”.

+ Ngày 05/10/2017, Công an quận NTL, Hà Nội xử phạt hành chính về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

+ Ngày 25/7/2021, Công an quận HĐ, Hà Nội xử phạt hành chính về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy” (cùng trong vụ án).

Danh chỉ bản số 597 lập ngày 26/7/2021 tại Công an quận HĐ, Hà Nội. Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 15/7/2021. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 2 - Công an thành phố Hà Nội. Có mặt tại phiên tòa

5. Nguyễn Thị Thu T, sinh năm 1987. Giới tính: Nữ. Hộ khẩu thường trú: số A, phố QT, phường QT, quận HĐ, Hà Nội. Nghề nghiệp: Lao động tự do. Trình độ văn hóa: 12/12. Con ông Nguyễn Gia B và bà Nguyễn Thị D. Có 01 con sinh năm 2020. Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân:

+ Bản án số 154/2021/HSST ngày 01/7/2021 của TAND quận HĐ, Hà Nội xử phạt 09 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” (án đã có hiệu lực pháp luật).

+ Ngày 25/7/2021, Công an quận HĐ, Hà Nội xử phạt hành chính về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy” (cùng trong vụ án).

Danh chỉ bản số 600 lập ngày 23/7/2021 tại Công an quận HĐ, Hà Nội. Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 15/7/2021. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 2 - Công an thành phố Hà Nội. Có mặt tại phiên tòa

NỘI DUNG VỤ ÁN

Các bị cáo bị Viện kiểm sát nhân dân quận HĐ, thành phố Hà Nội truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Hồi 10 giờ 15 phút ngày 14/7/2021, tổ công tác Công an phường PL, HĐ phối hợp với Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an quận HĐ tiến hành kiểm tra hành chính nhà ở của Đỗ Tiến D (tại số A, ngõ B, Yên Phúc, tổ C, phường PL, quận HĐ). Thời điểm kiểm tra trong nhà có các đối tượng Đỗ Tiến D, Nguyễn Văn T, Trần Đình Đ, Nguyễn Ngọc L; quá trình kiểm tra phát hiện thu giữ thu giữ trong phòng ngủ của D: 02 (hai) bộ tẩu tự tạo (mỗi bộ tẩu gồm 01 bình thủy tinh có gắn ống hút tự tạo); 01 (một) khẩu súng tự chế bằng kim loại dài 15cm do Đ mang đến (ký hiệu M1).

Quá trình khám xét khẩn cấp tại nhà D: thu tại phòng ngủ (tầng 2) 02 khẩu súng dạng bút (ký hiệu M2) và 25 viên đạn (ký hiệu M3); thu tại sân phơi tầng ba 01 (một) hộp gỗ bọc vải bên trong có 04 (bốn) túi ma tuý tổng hợp dạng đá (trong đó có 01 gói ma túy D khai được Đ cho để sử dụng ký hiệu M1; 02 gói ma túy D khai do T mang đến nhà D để sử dụng ký hiệu M2; 01 gói ma túy L mua để bán kiếm lời ký hiệu M3.

Các đối tượng Đỗ Tiến D, Nguyễn Văn T, Trần Đình Đ, Nguyễn Ngọc L được đưa về trụ sở cơ quan Công an để điều tra làm rõ. Tại Cơ quan Công an các đối tượng đều đầu thú khai nhận hành vi của mình.

Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Trần Đình Đ tại khu đất lò gạch Hà Trì 2, Hà cầu, HĐ, Hà Nội:

Vật chứng thu giữ tại nhà Trần Đình Đ:

- 04 (bốn) túi nilon có kích thước lần lượt là (12,5x7)cm, (2,5x2,5)cm, (2,5x2,5)cm, (2xl,5)cm bên trong đều chứa tinh thể màu trắng, được niêm phong trong một phong bì dán kín (ký hiệu mẫu M1’), tại các mép dán có chữ ký của đối tượng Trần Đình Đ, cán bộ Công an quận HĐ là Nguyễn Hoàng PL và dấu tròn đỏ của Công an phường HC, HĐ, Hà Nội.

- 01 (một) túi nilon màu xanh kích thước (9x7)cm bên trong chứa 21 viên nén hình tròn (trong đó 15 viên màu đỏ và 06 viên màu xanh); được niêm phong trong một phong bì dán kín (ký hiệu mẫu M2’), tại các mép dán có chữ ký của đối tượng Trần Đình Đ, cán bộ Công an quận HĐ là Nguyễn Hoàng PL và dấu tròn đỏ của Công an phường HC, HĐ, Hà Nội.

- 01 (một) túi nilon kích thước (6x4)cm bên trong chứa chất bột màu trắng; được niêm phong trong một phong bì dán kín (ký hiệu mẫu M3’), tại các mép dán có chữ ký của đối tượng Trần Đình Đ, cán bộ Công an quận HĐ là Nguyễn Hoàng PL và dấu tròn đỏ của Công an phường HC, HĐ, Hà Nội.

- 02 (hai) túi nilon có kích thước lần lượt là (12,5x7)cm và (12,5x9,5)cm bên trong mỗi túi đều chứa tinh thể màu trắng; tất cả được niêm phong trong một phong bì dán kín (ký hiệu mẫu M4’), tại các mép dán có chữ ký của đối tượng Trần Đình Đ, cán bộ Công an quận HĐ là Nguyễn Hoàng PL và dấu tròn đỏ của Công an phường HC, HĐ, Hà Nội;

- 01 (một) cân điện tử, được niêm phong trong một phong bì dán kín (ký hiệu mẫu M5’), tại các mép dán có chữ ký của đối tượng Trần Đình Đ, cán bộ Công an quận HĐ là Nguyễn Hoàng PL và dấu tròn đỏ của Công an phường HC, HĐ, Hà Nội;

- 01 (một) khẩu súng dài 57cm, nòng kim loại màu trắng dài 37,5cm; báng gỗ màu nâu dài 20cm; trên súng có chữ STEVENS (ký hiệu mẫu M4);

- 01 (một) khẩu súng dài 18,5cm có chữ số: 20TH4992; ổ quay của súng có 06 (sáu) vỏ kim loại màu vàng, bên trong vỏ có bi kim loại màu trắng, đường kính kích thước 6mm (ký hiệu mẫu M5);

- 11 (mười một) viên đạn bằng kim loại màu vàng; mỗi viên đạn dài 6,6cm và đáy của mỗi viên đạn đều có số 12 (ký hiệu mẫu M6);

- 46 (bốn mươi sáu) viên đạn có vỏ kim loại màu vàng; mỗi viên đạn dài 15,5mm; đầu kim loại màu xám có đường kính là 5,6mm (ký hiệu mẫu M7);

Trong ngày 14/07/2021, Nguyễn Thị Thu T đã đến Công an quận HĐ, Hà Nội xin đầu thú về hành vi phạm tội của mình.

Những đồ vật khác đã thu giữ của các bị cáo gồm:

- Thu giữ của Nguyễn Thị Thu T: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG, vỏ màu xanh; chứa sim số thuê bao 033.908.5484.

- Thu giữ của Nguyễn Ngọc L: 01 (một) máy tính bảng nhãn hiệu SAMSUNG màu đen; chứa sim số thuê bao 090.454.6404.

- Thu giữ của Trần Đình Đ: 01 (một) điện thoại di động iPhone, màu đen; chứa sim số thuê bao 091.189.5289; 01 vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu Thăng Long bằng sắt và 01 túi xách màu hồng.

- Thu giữ của Nguyễn Văn T: 01 (một) điện thoại di động NOKIA màu vàng; bên trong chứa 02 sim số thuê bao 0393983255; 0837228222.

- Thu giữ của Đỗ Tiến D: 01 (một) điện thoại di động iPhone màu vàng, chứa sim số thuê bao 0889889885.

Quá trình điều tra, các đối tượng khai nhận:

Nguyễn Ngọc L chung sống cùng Đỗ Tiến D tại số A, ngõ B, Yên Phúc, tổ C, phường PL, quận HĐ. Ngày 12/7/2021, L mua của một đối tượng tên Sự (quen qua zalo) 01 gói ma túy với giá 12.000.000 đồng để bán lại kiếm lời. L cất số ma túy trong 01 hộp sữa để ở phòng ngủ tầng 2 nhà D.

Khoảng 23 giờ 45 phút ngày 13/07/2021, D điện thoại gọi Đ sang nhà chơi. Đến 00 giờ ngày 14/07/2021, Đ đi xe ôm đến nhà D. Lúc này T cũng có mặt ở nhà D. Tại phòng ngủ tầng 2 nhà D, L chuẩn bị dụng cụ và ma túy (lấy từ gói mua của Sự) cho D, Đ, L, T sử dụng. Thấy ma túy không ngon, Đ gọi điện cho Nguyễn Thị Thu T (là người đang chung sống cùng Đ) bảo T mang ma tuý đến nhà D để sử dụng. Khoảng 00 giờ 20 phút cùng ngày T bế con nhỏ, mang theo 2 gói ma túy đến nhà D. T cùng sử dụng ma túy với mọi người và bỏ ra sàn nhà 02 gói ma tuý mang theo để nếu cần đến sẽ sử dụng. D bỏ ra 01 (một) gói nilon ma tuý đá (Đ cho D từ hôm trước) để nếu cần sẽ sử dụng. Trong khi mọi người đang sử dụng ma túy thì Đ bỏ khẩu súng (do D cho Đ từ cuối tháng 06/2021) ra sàn nhà. Đ lấy xe máy của D chở mẹ con T về nhà và quay lại nhà D chơi tiếp. Đến 06 giờ 45 phút cùng ngày có Nhưng (là bạn của D) và Đạt (là bạn trai của Nhưng) cũng đến sử dụng ma túy, xong Nhưng và Đạt về trước. Những gói ma túy của T và D bỏ ra chưa ai sử dụng.

Đến khoảng 09 giờ 45 phút cùng ngày, phát hiện lực lượng Công an đến kiểm tra, T lên tầng 2 báo cho L. L cầm 03 túi ma túy đá ở sàn nhà (gồm 02 gói T mang đến và 01 gói D bỏ ra) cho vào hộp gỗ, trong hộp gỗ đang có sẵn 01 túi nilong ma túy đá L mua của Sự, L đưa tất cả cho T để mang lên sân phơi tầng 3 cất giấu. (Cả 04 gói ma túy này Cơ quan Công an đã thu giữ).

Trần Đình Đ khai nhận: Khoảng 09 giờ 00 phút ngày 12/7/2021, Đ đi xe ôm từ nhà đến khu vực bến xe Yên Nghĩa, HĐ mua của một người phụ nữ không quen biết 01 (một) túi nilon bên trong chứa ma tuý tổng hợp dạng đá và 01 (một) túi nilon bên trong chứa (15 viên ma tuý hồng phiến và 06 viên nén màu xanh) với giá 3.000.000 đồng, mục đích sử dụng cho bản thân. Trong một lần D đến HĐ chơi, Đ cho D 01 gói về để sử dụng (chính là gói ma túy cơ quan Công an đã thu tại nhà D ngày 14/7/2021).

Về số vũ khí Đ khai nhận: 01 (một) khẩu súng dạng súng hoa cải có in chữ STEVENS, 01 khẩu súng ngắn ổ quay bên trong có 06 viên đạn; 11 viên đạn bằng kim loại màu vàng đáy có số 12; 46 viên đạn có vỏ màu vàng đầu đạn màu xám là do Đ mua của một người nam giới không quen biết qua mạng xã hội với giá 9.000.000 đồng từ khoảng tháng 01/2021; 01 (một) khẩu súng tự chế dạng súng ngắn màu trắng dài 15 cm (D cho Đ vào khoảng tháng 6/2021) lực lượng Công an đã thu giữ trong phòng ngủ tầng 2 nhà D ngày 14/7/2021.

Đỗ Tiến D khai nhận: trong số ma túy thu giữ tại nhà D, có 01 túi nilon ma tuý đá do Đ cho D từ hôm trước để sử dụng; 01 (một) khẩu súng tự chế dạng súng ngắn màu trắng dài 15 cm (D cho Đ vào khoảng tháng 6/2021); 02 (hai) khẩu súng dạng bút và 25 viên đạn. số súng đạn này, D mua của một người không quen biết qua mạng xã hội, giá tiền bao nhiêu D không nhớ.

Nguyễn Thị Thu T khai nhận: 02 gói ma túy thu giữ tại nhà D do T mang đến, T mua của một phụ nữ không quen biết tại cầu Đen, HĐ với giá 1.000.000 đồng vào khoảng ngày 12/7/2021, mục đích để sử dụng.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận HĐ đã ra quyết định trưng cầu giám định đối với số vật chứng thu giữ nêu trên.

* Tại Bản kết luận giám định số 5833/KLGĐ- PC09 ngày 23/7/2021 của Phòng PC09, Công an thành phố Hà Nội kết luận:

- Tang vật thu giữ tại nơi ở của Đỗ Tiến D:

+ 02 bộ tẩu hút tự tạo đều dính ma túy loại Methamphetamine.

+ Tinh thể màu trắng bên trong 01 túi nilông (Ký hiệu M1) là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 0,318 gam.

+ Tinh thể màu trắng bên trong 02 túi nilông (Ký hiệu M2) đều là ma túy loại Methamphetamine, có tổng khối lượng 0,619 gam.

+ Tinh thể màu trắng bên trong 01 túi nilông (Ký hiệu M3) là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 24,420 gam.

- Tang vật thu giữ tại nơi ở của Trần Đình Đ:

+ Tinh thể màu trắng bên trong 04 túi nilông (Ký hiệu M1) đều là ma túy loại Methamphetamine, tổng khối lượng 4,135 gam.

+ 15 viên nén màu đỏ đều là ma túy loại Methamphetamin, tổng khối lượng 1,483 gam; 06 viên nén màu xanh đều là ma túy loại Methamphetamine, tổng khối lượng 0,599 gam. (Ký hiệu M2) + Chất bột màu trắng bên trong 01 túi nilông (Ký hiệu M3) là ma túy loại Ketamine, khối lượng 0,175 gam.

+ Tinh thể màu trắng bên trong 02 túi nilông (Ký hiệu M4) đều là ma túy loại Methamphetamine, tổng khối lượng 14,094 gam + 01 cân điện tử dính ma túy loại Methamphetamine (Ký hiệu M5).

* Tại Bản kết luận giám định số 6039/C09- P3 ngày 23/07/2021 của Viện Khoa học hình sự Bộ Công an kết luận:

+ Khẩu súng kim loại màu trắng dài 15cm (Ký hiệu M1) gửi giám định là súng tự chế bắn đạn cỡ 5,6mm thuộc vũ khí quân dụng, hiện còn sử dụng bắn được.

+ Khẩu súng dài 57cm có chữ “STEVENS”(Ký hiệu M4) gửi giám định là súng tự chế bắn đạn ghém cỡ 12, thuộc vũ khí quân dụng, hiện còn sử dụng bắn được.

+ 02 khẩu súng dạng bút dài 13 cm và 15cm (Ký hiệu M2) gửi giám định là súng tự chế lắp vừa đạn cỡ 5,6mm, hiện 02 khẩu súng này không sử dụng để bắn được, không thuộc danh mục vũ khí.

+ Khẩu súng dài 18,5cm có chữ “20TH4992” (Ký hiệu M5) gửi giám định là súng bắn đạn bi bằng lực đẩy khí nén, thuộc đồ chơi nguy hiểm bị cấm, hiện còn sử dụng bắn được.

+ 25 viên đạn dài 15,5mm (Ký hiệu M3) và 46 viên đạn dài 15,5mm (Ký hiệu M7) gửi giám định là đạn cỡ 5,6x15,5mm, thuộc vũ khí thể thao, hiện còn sử dụng bắn được.

+ 11 viên đạn kim loại màu vàng dài 6,6cm (Ký hiệu M6) gửi giám định là đạn ghém cỡ 12, thuộc đạn súng săn, hiện còn sử dụng bắn được.

+ Khi sử dụng súng và đạn trong các mẫu ký hiệu M1, M3, M4, M5, M6, M7 bắn vào cơ thể người gây chết hoặc bị thương.

Tại Cơ quan điều tra, các bị cáo Đỗ Tiến D, Nguyễn Ngọc L, Nguyễn Văn T, Trần Đình Đ và Nguyễn Thị Thu T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bản thân.

* Về nguồn gốc số ma túy và vũ khí thu được của các bị cáo:

- Đối với 01 túi ma túy khối lượng 24,420 gam của L, L khai mua của người có tên là Sự quen qua mạng xã hội.

- Đối với 01 túi ma túy Đ cho D, Đ khai nhận mua của một phụ nữ không rõ tên tuổi địa chỉ ở bến xe Yên Nghĩa, HĐ.

- Đối với 02 túi ma túy T mang đến nhà D, T khai mua ma túy của một người phụ nữ không quen biết ở khu vực cầu Đen - HĐ.

- Đối với số súng, đạn thu được của D và Đ, D và Đ khai mua của đối tượng không quen biết qua mạng xã hội.

Các bị cáo khai không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể của các đối tượng đã bán ma túy, súng đạn. Ngoài lời khai của các bị cáo Cơ quan điều tra không có tài liệu nào khác nên không đủ căn cứ để điều tra xử lý trong vụ án này.

Ngày 23/7/2021, Công an quận HĐ đã ra quyết định xử lý hành chính đối với D, Đ, L, T, T về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.

Đối với đối tượng tên Nhưng và Đạt có hành vi tham gia sử dụng ma túy cùng với các bị cáo tại nhà số A, ngõ B, Yên Phúc, tổ C, phường PL, quận HĐ, Hà Nội hiện chưa có mặt tại địa phương. Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh, khi đủ căn cứ sẽ xử lý sau.

Tại Cáo trạng số 307/CT-VKS-HS ngày 08/11/2021, Viện kiểm sát nhân dân quận HĐ đã truy tố:

- Đối với Đỗ Tiến D, về các tội: “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy” tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng” theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 256; điểm c khoản 1 Điều 249 và khoản 1 Điều 304 Bộ luật hình sự.

- Đối với Nguyễn Ngọc L, về các tội: “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” và tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 255 và điểm i khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự.

- Đối với Trần Đình Đ, về các tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng” theo quy định tại điểm n khoản 2 Điều 249 và khoản 1 Điều 304 Bộ luật hình sự.

- Đối với Nguyễn Văn T, về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy dinh tại điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự.

- Đối với Nguyễn Thị Thu T, về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố; sau khi xem xét các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của các bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 256; điểm c khoản 1 Điều 249; khoản 1 Điều 304; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 55; Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Đỗ Tiến D: Từ 08 đến 09 năm tù về tội “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy”; từ 15 đến 18 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; từ 15 đến 18 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng”.

Tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của 3 tội là từ 10 năm 06 tháng đến 12 năm tù.

- Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 255; điểm i khoản 2 Điều 251; điểm s, n khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 55 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt Nguyễn Ngọc L: 07 năm 06 tháng đến 08 năm tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy; 10 năm đến 11 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của 2 tội là 17 năm 06 tháng đến 19 năm tù.

- Áp dụng điểm n khoản 2 Điều 249; khoản 1 Điều 304; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 55; Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt Trần Đình Đ từ 06 năm đến 06 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; từ 15 tháng đến 18 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng”.

Tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của 2 tội là 07 năm 03 tháng đến 08 năm tù.

- Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt Nguyễn Văn T từ 08 năm đến 09 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 56 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt Nguyễn Thị Thu T từ 15 tháng đến 18 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Tổng hợp với hình phạt 09 năm tù tại bản án số 154/2021/HSST ngày 01/7/2021 của TAND quận HĐ, Hà Nội, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của 02 bản án là 10 năm 03 tháng đến 10 năm 06 tháng tù.

- Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

- Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự:

+ Số ma túy đã thu giữ của các bị cáo; 01 vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu Thăng Long bằng sắt; 01 túi xách màu hồng không còn giá trị sử dụng nên đề nghị tịch thu tiêu hủy.

+ 02 khẩu súng là vũ khí quân dụng đề nghị giao Ban chỉ huy quân sự quân đội HĐ, Hà Nội xử lý theo thủ tục chung.

+ Số điện thoại đã thu giữ gồm: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG, vỏ màu xanh; chứa sim số thuê bao 033.908.5484 của Nguyễn Thị Thu T; 01 (một) máy tính bảng nhãn hiệu SAMSUNG màu đen; chứa sim số thuê bao 090.454.6404 của Nguyễn Ngọc L; 01 (một) điện thoại di động iPhone, màu đen; chứa sim số thuê bao 091.189.5289 của Trần Đình Đ; 01 (một) điện thoại di động NOKIA màu vàng; bên trong chứa 02 sim số thuê bao 0393983255; 0837228222 của Nguyễn Văn T; 01 (một) điện thoại di động iPhone màu vàng, chứa sim số thuê bao 0889889885 của Đỗ Tiến D đều là phương tiện các bị cáo sử dụng liên lạc trong quá trình thực hiện việc việc phạm tội nên cần tịch thu phát mại sung quỹ Nhà nước.

+ Đối với các loại súng, đạn khác không phải là vũ khí quân dụng thu giữ của Đỗ Tiến D, Trần Đình Đ, Công an quận HĐ, Hà Nội đã tiến hành thủ tục xử lý theo quy định nên không đề cập xử lý trong vụ án này.

Các bị cáo xin được xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện ý kiến của Kiểm sát viên, lời khai nhận tội của các bị cáo và các tài liệu chứng cứ khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã được thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự; các bị cáo không có ý kiến khiếu nại nên các hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung: Có đủ căn cứ xác định:

Khoảng 00 giờ 00 phút ngày 14/07/2021, tại nhà số A, ngõ B, Yên Phúc, tổ C, phường PL, quận HĐ, Hà Nội, Đỗ Tiến D có hành vi sử dụng nhà ở là nơi chứa chấp để Nguyễn Ngọc L tổ chức sử dụng chất ma túy cho Đỗ Tiến D, Nguyễn Ngọc L, Trần Đình Đ, Nguyễn Văn T, Nguyễn Thị Thu T cùng sử dụng.

Vào khoảng 10 giờ 15 phút ngày 14/7/2021, cũng tại địa chỉ nêu trên Nguyễn Ngọc L có hành vi cất giấu 24,420g Methamphetamine để bán kiếm lời; Đỗ Tiến D có hành vi tàng trữ 02 khẩu súng dạng bút và 25 viên đạn thuộc vũ khí thể thao; 01 gói Methamphetamine khối lượng 0,318g (do Đ cho D) để sử dụng. Đỗ Tiến D, Trần Đình Đ có hành vi tàng trữ trái phép 01 (một) khẩu súng tự chế dài 15 cm là vũ khí quân dụng; Nguyễn Văn T có hành vi cất giấu 25,357g Methamphetamine; Nguyễn Thị Thu T có hành vi tàng trữ 0,619g Methamphetamine để sử dụng.

Cùng trong ngày 14/7/2021, Trần Đình Đ có hành vi cất giấu tại nhà (ở Khu II Hà Trì, phường HC, quận HĐ, Hà Nội) 20,3llg Methamphetamine; 0,175g Ketamine để sử dụng; 01 khẩu súng dài 57cm có chữ “STEVENS” là vũ khí quân dụng; 01 Khẩu súng dài 18,5cm có chữ “20TH4992” là đồ chơi nguy hiểm bị cấm; 25 viên đạn dài 15,5mm và 46 viên đạn dài 15,5mm là đạn thuộc vũ khí thể thao; 11 viên đạn kim loại màu vàng dài 6,6cm là đạn ghém cỡ 12 súng săn. Đ còn phải chịu trách nhiệm về hành vi tàng trữ 0,318 g Methamphetamine mà Đ đã cho D.

Hành vi nêu trên của Đỗ Tiến D đã phạm tội “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy” với tình tiết tặng nặng định khung “Đối với 02 người trở lên” quy định tại điểm d khoản 2 điều 256; tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy “ theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249; tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng” quy định tại khoản 1 Điều 304 Bộ luật Hình sự.

Hành vi của Nguyễn Ngọc L đã phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” với tình tiết định khung “Đối với 02 người trở lên” quy định tại điểm b khoản 2 Điều 255; tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại điểm i khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Hành vi của Trần Đình Đ đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm n khoản 2 Điều 249 và tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng” quy định tại khoản 1 Điều 304 Bộ luật Hình sự.

Hành vi của Nguyễn Văn T đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Hành vi của Nguyễn Thị Thu T đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Như cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân quận HĐ, Hà Nội đã truy tố.

[3] Về tính chất vụ án, hành vi phạm tội: Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến quyền quản lý độc quyền của Nhà nước về vũ khí quân dụng, về các chất ma túy; làm gia tăng tệ nạn ma túy, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự an toàn xã hội nên cần có mức hình phạt phù hợp để giáo dục các bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung. Đa số hành vi của mỗi bị cáo là độc lập và cấu thành các tội phạm khác nhau, chịu trách nhiệm độc lập với nhau.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và quyết định hình phạt: Các bị cáo đều có nhân thân xấu; đã từng bị xử lý về hành vi vi phạm pháp luật liên quan tới ma túy, nay lại tiếp tục phạm tội cùng loại. Bị cáo Đ, D đã từng bị xét xử về tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe người khác chưa được xóa án, lại tiếp tục phạm tội. Vì vậy cần thiết phải áp dụng hình phạt nghiêm khắc, cách L các bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian để có tác dụng giáo dục và phòng ngừa tội phạm chung.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo đều đầu thú và thành khẩn khai báo nên được xem xét giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo L phạm tội khi đang mang thai nên được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm n khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Bị cáo Đ, D phải chịu tình tiết tăng nặng “Tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

Bị cáo D, Đ, T, T bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 15/7/2021 đến nay nên thời gian đã bị giam giữ, tạm giam được tính vào thời gian chấp hành hình phạt của các bị cáo theo quy định.

Bị cáo L bị tạm giữ từ ngày 15/7/2021 đến 23/7/2021 (09 ngày), nên thời gian đã bị giam giữ được tính trừ vào thời gian chấp hành hình phạt của bị cáo theo quy định.

Về hình phạt bổ sung: Các bị cáo không có nghề nghiệp nên không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung.

[5] Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự:

+ Số ma túy đã thu giữ của các bị cáo; 01 vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu Thăng Long bằng sắt; 01 túi xách màu hồng không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

+ 02 khẩu súng là vũ khí quân dụng cần giao Ban chỉ huy quân sự quận HĐ, Hà Nội xử lý theo thủ tục chung.

+ Số điện thoại đã thu giữ gồm: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG, vỏ màu xanh; chứa sim số thuê bao 033.908.5484 của Nguyễn Thị Thu T; 01 (một) máy tính bảng nhãn hiệu SAMSUNG màu đen; chứa sim số thuê bao 090.454.6404 của Nguyễn Ngọc L; 01 (một) điện thoại di động iPhone, màu đen; chứa sim số thuê bao 091.189.5289 của Trần Đình Đ; 01 (một) điện thoại di động NOKIA màu vàng; bên trong chứa 02 sim số thuê bao 0393983255; 0837228222 của Nguyễn Văn T; 01 (một) điện thoại di động iPhone màu vàng, chứa sim số thuê bao 0889889885 của Đỗ Tiến D là phương tiện các bị cáo sử dụng vào việc liên lạc trong quá trình thực hiện việc phạm tội nên tịch thu phát mại sung quỹ Nhà nước.

+ Đối với số súng đạn khác không phải là vũ khí quân dụng thu của Đỗ Tiến D, Trần Đình Đ thuộc thẩm quyền xử lý của Công an quận HĐ, Hà Nội không thuộc phạm vi xem xét trong vụ án này.

[6] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

[7] Về quyền kháng cáo: Các bị cáo được quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 331; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

Từ những nhận định trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Đỗ Tiến D (tức D Cà chưa) phạm tội “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy”; tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng”.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Ngọc L phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” và tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Tuyên bố bị cáo Trần Đình Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng”.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T, Nguyễn Thị Thu T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt:

2.1 Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 256; điểm c khoản 1 Điều 249 và khoản 1 Điều 304; Điều 38; Điều 55; điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Đỗ Tiến D (tức D Cà chưa): 08 (tám) năm tù về tội “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy”; 15 (mười lăm) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; 15 (mười lăm) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng”.

Tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của 3 tội là 10 (mười) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 15/7/2021.

2.2 Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 255 và điểm i khoản 2 Điều 251; Điều 38; điểm s, điểm n khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 55 Bộ luật hình sự, xử phạt Nguyễn Ngọc L: 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy “; 10 (mười) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của 2 tội là 18 (mười tám) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án được trừ 09 (chín) ngày đã tạm giữ (từ 15/7/2021 đến 23/7/2021).

2.3 Áp dụng điểm n khoản 2 Điều 249 và khoản 1 Điều 304; Điều 38; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 55 Bộ luật hình sự, xử phạt Trần Đình Đ 06 (sáu) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng”.

Tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của 2 tội là 07 ( bảy) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 15/7/2021.

2.4 Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt Nguyễn Văn T 08 (tám) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 15/7/2021.

2.5 Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 56 Bộ luật hình sự, xử phạt Nguyễn Thị Thu T 18 (mười tám) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Tổng hợp với hình phạt 09 (chín) năm tù tại bản án số 154/2021/HSST ngày 01/7/2021 của TAND quận HĐ, Hà Nội, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của 02 bản án là 10 (mười) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 15/7/2021. Được trừ thời gian bị cáo bị bắt quả tang, tạm giữ từ ngày 13/01/2021 đến ngày 23/01/2021 theo Bản án số 154/2021/HSST ngày 01/7/2021 của TAND quận HĐ, Hà Nội.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điều 47 Bộ luật Hình sự; điều 106 Bộ luật Tố Tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy:

+ 03 phong bì niêm phong của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hà Nội hoàn lại, mép dán ngoài có chữ ký của Nguyễn Văn T, Nguyễn Ngọc L, Trần Đình Đ, Đỗ Tiến D, cán bộ Nguyễn Hoàng PL và giám định viên Nguyễn Văn Hùng ký hiệu M1, M2, M4.

+ 01 hộp niêm phong của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hà Nội hoàn lại, mép dán ngoài có chữ ký của Nguyễn Văn T, Nguyễn Ngọc L, Trần Đình Đ, Đỗ Tiến D, cán bộ Nguyễn Hoàng PL và giám định viên Nguyễn Văn Hùng ký hiệu M3.

+ 05 phong bì niêm phong của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hà Nội hoàn lại, mép dán ngoài có chữ ký của Trần Đình Đ, cán bộ Nguyễn Hoàng PL và giám định viên Nguyễn Văn Hùng ký hiệu M1’, M2’, M3’, M4’, M5’.

+ 01 túi xách màu hồng; 01 vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu Thăng Long bằng sắt.

- Tịch thu phát mại sung quỹ Nhà nước: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG, vỏ màu xanh; chứa sim số thuê bao 033.908.5484 thu giữ của Nguyễn Thị Thu T; 01 (một) máy tính bảng nhãn hiệu SAMSUNG màu đen; chứa sim số thuê bao 090.454.6404 thu giữ của Nguyễn Ngọc L; 01 (một) điện thoại di động iPhone màu đen; chứa sim số thuê bao 091.189.5289 thu giữ của Trần Đình Đ; 01 (một) điện thoại di động NOKIA màu vàng; bên trong chứa 02 sim số thuê bao 0393983255; 0837228222 thu giữ của Nguyễn Văn T; 01 (một) điện thoại di động iPhone màu vàng, chứa sim số thuê bao 0889889885 thu giữ của Đỗ Tiến D.

(Tình trạng như biên bản giao nhận vật chứng ngày 27/12/2021 giữa Công an quận HĐ và Chi cục Thi hành án dân sự quận HĐ, Hà Nội).

- Giao Ban chỉ huy quân sự Quận HĐ, Hà Nội xử lý theo quy định: 01 phong bì niêm phong ký hiệu M1 (bên trong có chứa 01 khẩu súng kim loại màu trắng dài 15 cm; 01 khẩu súng dài 57 cm có chữ “STEVENS”) mép dán ngoài có chữ ký của Điều tra viên Lâm Văn T, giám định viên Hoàng Công S và dấu tròn đỏ của Viện khoa học hình sự - Bộ Công an. (Hiện đang do Công an quận HĐ, Hà Nội lưu giữ).

4. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án buộc mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự: Các bị cáo có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

217
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán, tàng trữ, chứa chấp, tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy và tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng số 336/2021/HS-ST

Số hiệu:336/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hà Đông - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về