Bản án về tội mua bán, chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy số 27/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÔNG SƠN, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 27/2021/HS-ST NGÀY 11/11/2021 VỀ TỘI MUA BÁN, CHỨA CHẤP VIỆC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 11 tháng 11 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Đ, tỉnh TH xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 28/2021/TL- HSST ngày 22 tháng 10 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 28 /2021/QĐXXST- HS ngày 22 tháng 10 năm 2021 đối với bị cáo:

Lê Văn Th, sinh năm 1988. Nơi cư trú: thôn ĐK, xã ĐT, huyện ĐS, tỉnh TH; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt nam; con ông Lê Văn H, sinh năm 1962 và bà Dương Thị T, sinh năm 1962; có vợ Dương Thị L, sinh năm 1989; Có hai con Con lớn sinh năm 2014, con nhỏ sinh năm 2016. Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 02/8/2021 đến ngày 08/8/2021 chuyển tạm giam.

Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh TH. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan : Anh Nguyễn Duy L1, sinh năm 1995.

Địa chỉ : thôn TĐ, xã ĐH, huyện ĐS, tỉnh TH.

Người làm chứng : Anh Nguyễn Văn L, sinh năm 2004 Địa chỉ : thôn TĐ, xã ĐH, huyện ĐS, tỉnh TH.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau :

Khoảng 8 giờ 41 phút ngày 02/8/2021 Nguyễn Duy L1 ở xã Đông Hòa, huyện Đ nhắn tin từ tài khoản Facebook của mình (tên tài khoản “Bố Già”) đến tài khoản Facebook của Lê Văn Th (tên tài khoản “T”) để hỏi mua 01 túi ma túy đá với giá 500.000 đồng. Đến 12 giờ cùng ngày Th mở máy thấy tin nhắn của L1 thì nhắn tin và gọi lại qua Facebook cho L1 nhưng L1 không nghe máy.

Đến 13 giờ 7 phút L1 nhắn tin lại cho Th hẹn là 30 phút nữa xuống nhà Th. Khoảng 15 giờ 30 phút cùng ngày, L1 và Nguyễn Văn L ở thôn Tân Đại, xã Đông Hòa, huyện Đ, tỉnh TH đến nhà Th và gặp Th đang ở phòng khách, L1 hỏi Th “Bán cho một túi ma túy đá 500.000đồng”, Th đi vào phòng ngủ ở sát phòng khách lấy một túi xách màu đen và mang ra phòng khách và lấy từ trong túi xách ra 01 túi nilon chứa ma túy đá và bỏ một ít ma túy đá sang túi nilon khác, số còn lại đưa cho L1, L1 cầm túi ma túy. Sau đó Th để túi ma túy vừa san vào túi màu đen, mang vào phòng ngủ để trên nóc tủ và đi ra phòng khách. Khi ra phòng khách, L1 hỏi Th là có bộ dụng cụ sử dụng ma túy không cho L1 mượn để sử dụng ma túy. Th bảo L1 xuống bếp lấy, L1 nói với Th “lát về sẽ trả tiền mua ma túy”. Th và L1 đi xuống bếp, còn L thì ngồi chơi điện thoại ở phòng khách. Khi xuống bếp, Th lấy 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy gồm: 01chai nhựa, 01 nắp chai đục hai lỗ, 01 ống hút nhựa và 01 ống thủy tinh gắn ống hút, để lên bàn cho L1 sử dụng ma túy. L1 lấy ra một ít ma túy từ túi ma túy vừa mua của Th bỏ vào ống thủy tinh để sử dụng, số còn lại L1 bỏ vào túi quần trước bên phải. Sau đó, L1 lấy bật lửa có sẵn ở trên bàn đốt để sử dụng, Th cũng tham gia sử dụng cùng. Khi cả hai đang sử dụng thì bị Công an huyện Đ phối hợp cùng Công an xã Đông Thịnh phát hiện bắt giữ.

Quá trình bắt giữ đã phát hiện và thu trong túi quần trước bên phải của L1 01 túi ma túy, ở túi quần bên trái có 500.000đồng (L1 khai là tiền sẽ dùng để trả tiền mua ma túy cho Th); tại bàn ở bếp thu giữ bộ dụng cụ sử dụng ma túy, 01 bật lửa, 01 điện thoại Iphone của Th; 01 điện thoại POCO của L1 mượn của Nguyễn Văn L .

Khám xét khẩn cấp tại nhà Th, Cơ quan CSĐT Công an huyện Đ phát hiện thu giữ tại nóc tủ ở trong phòng ngủ nhà Th 01 túi xách màu đen, bên trong có một túi nilon chứa các hạt tinh thể màu trắng.

Tại biên bản kiểm tra điện thoại của Th và điện thoại (L1 mượn của L) đã thu giữ được các nội dung tin nhắn giữa tài khoản Facebook của Th tên tài khoản “T” và của L1 tên tài khoản “Bố Già” có nội dung trao đổi việc hỏi và hẹn mua ma túy.

Tại bản kết luận giám định số 2489/PC09 ngày 05 tháng 8 năm 2021 Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh TH kết luận: khối lượng ma túy thu trong túi quần L1 là 0,022g(không phẩy không hai hai gam) loại:

Methamphetamine; khối lượng ma túy thu trong túi xách khi khám xét nhà Th là 0,590g (không phẩy năm chín không gam) loại: Methamphetamine .

Tại Cơ quan điều tra Th khai nhận: Khoảng 13 giờ ngày 02/8/2021, Th đã mua 01 túi ma túy của 01 người nam giới không biết tên, địa chỉ tại khu vực cách đồng xã Đông Thịnh giáp với phường Đông Tân, TP Th, tỉnh TH với giá 800.000 đồng. sau đó mang về cho vào trong túi xách màu đen cất trên nóc tủ phòng ngủ mục đích để bán.

Vật chứng thu giữ gồm: 01 túi ni lon có khối lượng ma túy là 0,022g (không phẩy không hai hai gam) loại: Methamphetamine thu ở trong túi quần của đối tượng L1 sau giám định còn 0,013g ( không phẩy không một ba gam), một túi xách màu đen trong có một túi nilon có khối lượng ma túy là: 0,590g (không phẩy năm chín không gam) loại: Methamphetamine, sau giám định còn 0,530g (không phẩy năm ba không gam); 01 bộ dụng cụ gồm một chai nhựa; 01 nắp chai đục hai lỗ; 01 ống hút nhựa và 01 ống thủy tinh gắn ống hút; 01 bật lửa;

500.000đồng và 01 điện thoại Iphone. Số vật chứng là ma túy, ống thủy tinh trong bộ dụng cụ sau giám định được đựng trong phong bì do phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh TH phát hành dán kín niêm phong bởi các chữ ký ghi rõ họ tên của Lê M T, Mai Văn M và các hình dấu của phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh TH. Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ đã chuyển đến Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ để xử lý theo quy định của pháp luật.

Ngoài ra Cơ quan điều tra còn thu giữ 01 điện thoại POCO của Nguyễn Văn L, đây là điện thoại đối tượng L1 mượn của L để nhắn tin hỏi mua ma túy. Qua điều tra, xác định đây không phải là vật chứng của vụ án, Cơ quan CSĐT Công an đã ra quyết định trả lại chủ sỡ hữu theo quy định.

Quá trình điều tra, bị can Lê Văn Th đã khai nhận hành vi phạm tội phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.

Tại bản Cáo trạng số 28/Ctr-KSĐT ngày 21/10/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ, tỉnh TH đã truy tố Lê Văn Th về tội “Mua bán trái phép chất ma túy’’ theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự và tội “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 256 BLHS.

Tại phiên tòa:

- Bị cáo thành khẩn khai báo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

- Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố về tội danh như cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Điều 38 BLHS đối với tội tội “Mua bán trái phép chất ma túy’’ và áp dụng khoản 1 Điều 256; điểm s khoản 1 Điều 51 Điều 38 BLHS đối với tội tội “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Bị cáo Lê Văn Th từ 27 đến 30 tháng tù (Đối với tội “Mua bán trái phép chất ma túy’’ và 24 đến 30 tháng tù (Đối với tội tội “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy” Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, có hoàn cảnh khó khăn, không có tài sản và không có nghề nghiệp ổn định. Vì vậy không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 BLHS, điểm a, b khoản 2 Điều 106 BLTTHS.

Đề nghị tịch thu tiêu hủy toàn bộ tổng số Methamphetamine còn lại sau giám định 0,612 gam chất bột màu trắng.

01 bộ dụng cụ gồm: 01 chai nhựa, nắp chai đục hai lỗ, ống hút nhựa;

01 bật lửa đã qua sử dụng;

01 điện thoại Iphone màu xám đen đã qua sử dụng 01 túi màu đen có kích thước khoảng (12x15) cm có khóa bằng kim loại màu vàng đồng.

Tịch thu xung quỹ nhà nước số tiền 500.000 đồng (năm trăm nghìn đồng) (tiền Việt Nam) được đựng trong phong bì do phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh TH phát hành dán kín niêm phong.

Đối với Nguyễn Duy L1, là người mua ma tuý của Th để sử dụng, đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý, nhưng khối lượng ma tuý chưa đủ định lượng để xử lý về hình sự. Do vậy, Cơ quan điều tra đã ra quyết định xử phạt hành chính là phù hợp.

Tại phiên tòa bị cáo nhận tội, không có ý kiến tranh luận tranh luận gì.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tính hợp pháp của các hành vi, Quyết định tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Đ, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố đều thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Qua quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Nguyễn Văn Tài đã khai nhận: Là đối tượng nghiện hút ma tuý nên khoảng 15 giờ 30 phút ngày 02/8/2021, tại nhà riêng của Lê Văn Th ở thôn Đoàn Kết, xã Đông Thịnh, huyện Đ, tỉnh TH, Th đã có hành vi bán trái phép 01 túi ma túy đá có trọng lượng là 0,022g (không phẩy không hai hai gam) cho Nguyễn Duy L1 với giá 500.000đồng; Số ma túy thu giữ tại nhà Th có tổng trọng lượng là 0,590g (không phẩy năm chín không gam) loại Methamphetamine (Th khai mục đích để bán). Tổng trọng lượng ma túy Th tàng trữ nhằm mục đích bán là: 0,612g(không phẩy sáu mười hai gam) loại Methamphetamine.

Sau khi bán được ma túy cho L1, Th đã cho L1 mượn 01 bộ dụng cụ để sử dụng ma túy và cho L1 sử dụng trái phép chất ma túy tại nhà mình. Khi cả hai đang sử dụng ma túy thì bị Công an huyện Đ phối hợp cùng Công an xã Đông Thịnh phát hiện bắt giữ.

[3] Lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án; Phù hợp với kết quả xét hỏi và tranh tụng tại phiên tòa. Do đó cáo trạng và lời luận tội của Đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là có căn cứ. Hội đồng xét xử thấy có đủ cơ sở để khẳng định: Hành vi của Lê Văn Th đã phạm tội tội “Mua bán trái phép chất ma túy và tội “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy”.

[4] Xét tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm: Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy và “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy” của Lê Văn Th là nguy hiểm cho xã hội, bị pháp luật nghiêm cấm, hành vi của bị cáo là nghiêm trọng không những đã xâm phạm chế độ độc quyền quản lý của nhà nước về ma túy, mà còn gây mất trật tự trị an xã hội, bị cáo là đối tượng nghiện ma túy nên nhận thức rõ tác hại của ma túy nhưng do hám lợi cáo đã bán cho Nguyễn Duy L1 0,022g (không phẩy không hai hai gam) cho Nguyễn Duy L1 với giá 500.000đồng và số ma túy thu giữ tại nhà Th có tổng trọng lượng là 0,590g (không phẩy năm chín không gam) loại Methamphetamine. Hành mua bán trái phép chất ma túy là nguyên nhân tệ nạn nghiện ma túy, làm ảnh hưởng đến sức khỏe, lây truyền bệnh HIV.... Do đó cần được đưa ra xử lý nghiêm minh theo pháp luật hình sự. Vì vậy cần phải cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng răn đe, giáo dục cải tạo và phòng ngừa chung.

[5] Xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo :

Về tình tiết tăng nặng : Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng. Nhân thân: Bị cáo là đối tượng nghiện ma túy.

Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội cùa mình. Vì vậy bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được qui định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật, yên tâm cải tạo, sớm trở thành người công dân tốt.

[6] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự ‘’Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản’’, do đó bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên theo tài liệu chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, lao động tự do, không có thu nhập, điều kiện kinh tế khó khăn. Vì vậy, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Về vật chứng: Căn cứ Điều 47 BLHS; Điều 106 BLTTHS.

- Tịch thu tiêu hủy toàn bộ tổng số 0,543 gam loại Methanphetanine; 01 ống thủy tinh, bao gói phong bì ký hiệu M, M1, M2 là mẫu vật còn lại sau giám định.

- 01 bộ dụng cụ gồm: 01 chai nhựa, nắp chai đục hai lỗ, ống hút nhựa;

- 01 bật lửa đã qua sử dụng;

- 01 điện thoại Iphone màu xám đen đã qua sử dụng - 01 túi màu đen có kích thước khoảng (12x15) cm có khóa bằng kim loại màu vàng đồng.

- Tịch thu xung quỹ nhà nước số tiền 500.000 đồng (năm trăm nghìn đồng) (tiền Việt Nam) được đựng trong phong bì do phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh TH phát hành dán kín niêm phong.

Đối với Nguyễn Duy L1, là người mua ma tuý của Th để sử dụng, đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý, nhưng khối lượng ma tuý chưa đủ định lượng để xử lý về hình sự. Do vậy, Cơ quan điều tra đã ra quyết định xử phạt hành chính là phù hợp.

8] Về án phí : Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ : khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Điều 38 BLHS đối với tội tội “Mua bán trái phép chất ma túy’’ và áp dụng khoản 1 Điều 256; điểm s khoản 1 Điều 51 Điều 38 BLHS đối với tội tội “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy”.

Tuyên bố: Bị cáo Lê Văn Th phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy’’ và tội “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Bị cáo Lê Văn Th 27 (Hai bảy) tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy’’ và 24 (Hai bốn) tháng tù về tội “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy”. Tổng hợp hình phạt buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung cho cả hai tội là 51(Năm mốt) tháng. Thời gian chấp hành án phạt tù tính từ ngày tạm giữ 02/8/2021.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 BLHS, điểm a, b khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy: Toàn bộ số Methamphetamine còn lại sau giám định 0,543 gam; 01 thủy tinh, bao gói phong bì ký hiệu M, M1, M2 là mẫu vật được niêm phong trong phong bì do phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh TH phát hành, được dán kín, niêm phong bởi các chữ ký ghi rõ họ tên của Mai Văn M, Trần Thị Thúy Hằng, Lê M T và các hình dấu của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh TH.

- 01 bộ dụng cụ gồm: 01 chai nhựa, nắp chai đục hai lỗ, ống hút nhựa;

- 01 bật lửa đã qua sử dụng;

- 01 điện thoại Iphone màu xám đen đã qua sử dụng;

- 01 túi màu đen có kích thước khoảng (12x15) cm có khóa bằng kim loại màu vàng đồng;

- Tịch thu xung quỹ nhà nước số tiền 500.000 đồng (năm trăm nghìn đồng) (tiền Việt Nam) được đựng trong phong bì do phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh TH phát hành dán kín niêm phong bởi các chữ ký, ghi rõ họ tên Lê Văn H, Lê Thị Bích N và các hình dấu của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh TH.

Vật chứng trên hiện đang lưu giữ tại cơ quan Thi hành án Dân sự huyện Đ, tỉnh TH theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 26/10/2021 giữa cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đ và Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Đ, tỉnh TH.

Về án phí: Áp dụng: Khoản 2 Điều 135 BLTTHS; Điều 6; điểm a khoản 1 Điều 23; khoản I mục 1 Danh mục án phí, lệ phí (ban hành kèm theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016) của Ủy ban thường vụ Quốc hội - Buộc Lê Văn Th phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại chính quyền đại phương.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

29
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán, chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy số 27/2021/HS-ST

Số hiệu:27/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đông Sơn - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về