Bản án về tội môi giới hối lộ số 137/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU

BẢN ÁN 137/2022/HS-PT NGÀY 21/12/2022 VỀ TỘI MÔI GIỚI HỐI LỘ

Ngày 21 tháng 12 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 170/2022/TLPT-HS ngày 25 tháng 10 năm 2022 đối với bị cáo Lê Văn N, Nguyễn Công D do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 233/2022/HS-ST ngày 12-9-2022 của Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.

- Bị cáo có kháng cáo:

1. Lê Văn N, sinh năm 1974, nơi sinh: tỉnh Thanh Hóa; Hộ khẩu thường trú: Thôn V, phường N, thị xã N, tỉnh Thanh Hóa; Chỗ ở trước khi bị bắt: 17/32 đường N, phường A thành phố V, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Thầu xây dựng, Trình độ học vấn: 8/12; Cha: Lê Văn N1, (đã chết); Mẹ: Lê Thị D1, sinh năm 1936; Vợ: Lê Thị Q, sinh năm 1980; Có 03 người con lớn sinh năm 1997, con nhỏ sinh năm 2012;

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị bắt tạm giam ngày 14/5/2021. (có mặt)

2. Nguyễn Công D, sinh năm 1976, nơi sinh: tỉnh Nghệ An; Hộ khẩu thường trú: Tổ I ấp P, xã T, thành phố B, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu; Chỗ ở: A đường Đ, Phường A, thành phố V, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Thợ hồ, Trình độ học vấn: 9/12; Cha: Nguyễn Công C, (đã chết); Mẹ: Trần Thị L, sinh năm 1939; Vợ: Trần Thị H; Có 02 người con lớn sinh năm 2000 nhỏ sinh năm 2012;

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị bắt tạm giữ ngày 15/5/2021, chuyển tạm giam ngày 21/5/2021. Ngày 04/8/2021 được thay thế biện pháp ngăn chặn cho tại ngoại (có mặt).

Ngoài ra, trong vụ án còn có các bị cáo khác không kháng cáo và không bị kháng cáo kháng nghị.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trong năm 2020 đến năm 2021, Ngọ Văn Ư và Trịnh Văn Đ là cán bộ phòng Tài nguyên môi trường thành phố V và Phòng Quản lý đô thị thành phố V đã nhờ Lê Văn D2, Lê Bảo T, Đậu Mạnh T1 là cán bộ trong tổ quản lý về xây dựng, trật tự đô thị thuộc Phường A, thành phố V không kiểm tra, lập biên bản xử lý vi phạm để cho các thầu xây dựng là Dương Đức S, Lê Văn N xây dựng nhà trái phép trên đất nông nghiệp tại địa bàn Phường A, thành phố V. Cơ quan điều tra đã làm rõ 02 vụ, cụ thể như sau:

Vụ thứ nhất: Dương Đức S là thầu xây dựng và có mối quan hệ quen biết với Ngọ Văn Ư từ khi Ư còn là Công chức địa chính, đô thị, xây dựng, môi trường thuộc U, thành phố V. Khoảng tháng 08/2020, S mua mảnh đất trống tại hẻm I đường c, phường A, thành phố V. Do là đất nông nghiệp không được phép xây nhà nên S đến gặp Ư (lúc này Ư đang là cán bộ của Phòng tài nguyên môi trường thành phố V) nhờ giúp đỡ xây dựng căn nhà trái phép trên mảnh đất nói trên, S chụp hình thửa đất rồi gửi qua mạng xã hội Zalo cho Ư. Sau khi xem vị trí đất thì Ư đồng ý nên S đã đưa cho Ước số tiền 70.000.000 đồng (bảy mươi triệu đồng) để Ước liên hệ, đưa hối lộ giúp S xây nhà trái phép.

Sau khi nhận tiền, Ư nhắn tin qua mạng xã hội Zalo nhờ các nhân viên Tổ quản lý xây dựng, đô thị thuộc U, thành phố V gồm: Đậu Mạnh T1 và Lê Văn D2 không kiểm tra, xử lý để tạo điều kiện cho S xây được nhà trái phép và hứa sẽ đưa số tiền 50.000.000 đồng (năm mươi triệu đồng) để chia cho anh em trong Tổ quản lý xây dựng, đô thị nhưng thực tế Ư không đưa tiền cho những người này (D2, T, T1 cũng khẳng định không có việc hứa hẹn đưa tiền). Sau đó, Ngọ Văn Ư nói Dương Đức S quây tôn kín lại rồi tiến hành xây nhà ở bên trong. Trong quá trình xây nhà thì cán bộ U đến kiểm tra, ghi nhận hiện trạng nên S gọi điện thoại thông báo cho Ư. Lúc này, Ư gọi điện thoại cho Đậu Mạnh T1 hoặc Lê Bảo T (Ước không nhớ cụ thể đã gọi cho ai) nhờ làm ngơ, không xử lý bằng cách chỉ yêu cầu S dừng thi công nhưng không lập biên bản xử lý vi phạm. Vài ngày sau đó, Dương Đức S tiếp tục xây dựng cho đến khi hoàn thiện xong căn nhà tại hẻm I đường C, phường A, thành phố V.

Quá trình điều tra, Lê Văn D2, Đậu Mạnh T1 xác nhận: Vào khoảng tháng 08/2020, Ư có nhắn tin Z và điện thoại cho T1, D2 để nhờ T1, D2 không kiểm tra, xử lý để cho Ư (S) xây dựng căn nhà trái phép tại hẻm I đường C, Phường A, thành phố V. Sau đó, T1, D2 đã làm ngơ, không kiểm tra, xử lý để cho Ư (S) xây hoàn thành xong căn nhà trái phép tại hẻm I đường C, Phường A, thành phố V. Lý do T1, D2 làm ngơ, không kiểm tra, xử lý là do mặc dù Ư đã chuyển công tác đến Phòng tài nguyên môi trường thành phố V làm việc nhưng vẫn còn uy tín, ảnh hưởng với T1, D2 và những người làm việc trong Tổ quản lý xây dựng, đô thị U, thành phố V.

Lê Bảo T xác nhận: Vào khoảng tháng 09/2020, T đi cùng nhân viên tổ quản lý đô thị đi kiểm tra công trình xây dựng trái phép tại hẻm I đường C, Phường A, thành phố V thì phát hiện công trình tại địa chỉ I đang xây dựng nên đã yêu cầu tạm ngưng, giữ nguyên hiện trạng. Ngày hôm sau thì T1 có nói với T rằng căn nhà trên do Ư xin cho xây dựng nên T cũng làm ngơ, không kiểm tra, xử lý đối với căn nhà nói trên.

Cơ quan điều tra đã đưa Dương Đức S và Ngọ Văn Ư đi chỉ địa điểm là căn nhà xây trái phép đã gắn bản địa chỉ 988/47/69/1S đường C, Phường A, thành phố V và nơi S đã đưa hối lộ số tiền 70.000.000đ cho Ư tại khu vực giao nhau giữa đường B và đường Đ, phường A, thành phố V. số tiền này Ư giữ cho đến khi bị bắt giữ. Cơ quan điều tra xác minh tại Ư, thành phố V xác định căn nhà tại địa chỉ I đường C, phường A, thành phố V xây dựng trái phép trên đất nông nghiệp và không có hồ sơ xử lý theo quy định của pháp luật.

Vụ thứ hai: Vào khoảng tháng 06/2020, Nguyễn Công D mua mảnh đất trống diện tích 60m2 thuộc thửa đất số 290, tờ bản đồ số 41, địa chỉ tại phường A, thành phố V (đất trồng cây lâu năm, thời hạn sử dụng đến tháng 06/2056) ở cạnh căn nhà số A đường Đ, Phường A, thành phố V. Sau khi mua đất, thông qua mối quan hệ D biết và tìm gặp thầu xây dựng là Lê Văn N đặt vấn đề nhờ chung chi tiền cho người có chức vụ, quyền hạn trong lĩnh vực xây dựng trên địa bàn phường A, thành phố V để giúp D được xây nhà không có giấy phép xây dựng trên mảnh đất nói trên. Lúc này, N biết Trịnh Văn Đ đang làm việc tại Phòng Quản lý đô thị thành phố V và có thể nhờ Đoàn “giúp đỡ” xây dựng nhà trái phép nên N đồng ý nhận lời và thỏa thuận với D để xây dựng trái phép thì phải chung chi số tiền 100.000.000 đồng (một trăm triệu đồng) cho cán bộ có chức vụ, quyền hạn trong lĩnh vực xây dựng để nhờ họ làm ngơ, không kiểm tra, xử lý. D đồng ý và sau đó đã chuyển 100.000.000 đồng vào số tài khoản 6090205700720 (Ngân hàng A) của N.

Sau khi nhận được tiền từ D, N đã liên hệ với Trịnh Văn Đ nhờ giúp đỡ để được xây dựng căn nhà cho D, đồng thời Nương chụp ảnh địa chỉ căn nhà ở cạnh mảnh đất muốn xây dựng (địa chỉ: 1 đường Đ, phường A, thành phố V, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu) gửi qua Z cho Đ để biết vị trí căn nhà sẽ xây dựng với diện tích là 60m2. Do giữa Đ và N đã quen biết nhiều năm nên Đ nhận lời và yêu cầu N phải đưa số tiền 60.000.000 đồng (sáu mươi triệu đồng) để được xây căn nhà này. Để giúp N xây nhà không có giấy phép, Đ đã nhắn tin cho Lê Văn D2 - hiện đang là cán bộ Tổ quản lý đô thị, xây dựng thuộc UBND phường U, thành phố V kèm theo hình ảnh mà trước đó N đã gửi cho Đ để Dậu xác định được vị trí dự định xây nhà. D2 nói với Đ để D2 bàn bạc với anh em trong Tổ quản lý đô thị, xây dựng và sẽ trả lời sau. Khoảng 10 ngày sau không thấy D2 trả lời nên Đ tiếp tục nhắn tin hỏi lại, D2 tiếp tục hẹn sẽ trả lời sau, mấy ngày sau thì D2 gọi điện thoại đồng ý để cho Đ tiến hành xây dựng căn nhà. Sau đó, Đ đã gọi điện thoại cho N tiến hành thi công xây dựng nhà.

Do khu vực Đoàn nhờ xây nhà rất trống trải nên bị Tổ quản lý đô thị, xây dựng thuộc U, thành phố V đi kiểm tra phát hiện nên D2 có nhắn tin báo cho Đ biết, Đoàn nhắn tin trả lời Dậu với nội dung “anh em làm nhẹ tay” nên Tổ quản lý đô thị, xây dựng chỉ xử lý hình thức là đập bỏ một phần tường gạch để giảm bớt dư luận. Sau đó, Đ tiếp tục nhắn tin nhờ D2 nên D2 đã nói lại với Lê Bảo T và Đậu Mạnh T1 (cùng làm tại Tổ quản lý đô thị, xây dựng thuộc U, thành phố V phụ trách địa bàn nơi Đoàn nhờ xây nhà) làm ngơ, không kiểm tra, xử lý để công trình của Đ tiếp tục xây dựng và hoàn thiện căn nhà nói trên.

Sau khi xây, hoàn thiện xong căn nhà này thì N đã gọi điện thoại xin Đ số tài khoản ngân hàng rồi chuyển số tiền 60.000.000 đồng (Sáu mươi triệu đồng) vào số tài khoản 0011002288728 (Ngân hàng V) của Đ, còn lại là 40.000.000 đồng (Bốn mươi triệu đồng) Nương được hưởng. Sau khi xây dựng xong căn nhà trên thì Nguyễn Công D đã tự gắn bảng số nhà là 112/15/20/19 đường Đ, Phường A, thành phố V, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Hiện tại Nguyễn Công D đã bán căn nhà trên cho anh Nguyễn Văn P (SN: 1993, HKTT: Tổ E, phường T, thành phố G, tỉnh Đắk Nông; chỗ ở: 112/15/20/19 đường C, Phường A, thành phố. Vũng Tàu) với giá tiền là 1.060.000.000 đồng.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 233/2022/HSST ngày 12-9-2022 của Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã quyết định:

Tuyên bố: bị cáo Nguyễn Công D phạm tội “Đưa hối lộ”; bị cáo Lê Văn N phạm tội “Môi giới hối lộ”.

Áp dụng điểm e khoản 2 Điều 364; điểm S khoản 1, khoản 2 Điều 51; các Điều 38, 50 Bộ luật hình sự; Xử phạt bị cáo Nguyễn Công D 2 (H1) năm tù. Thời hạn tù được tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời hạn bị cáo đã bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 15/5/2021 đến ngày 04/8/2021.

Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 365; điểm s khoản 1 Điều 51; các Điều 38, 50 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Lê Văn N 2 (H1) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 14/5/2021.

Ngoài ra bản án còn tuyên hình phạt đối với các bị cáo khác, tuyên về biện pháp tư pháp, án phí, xử lý vật chứng và quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Ngày 15-9-2022, bị cáo Lê Văn N kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Ngày 22-9-2022, bị cáo Nguyễn Công D kháng cáo kêu oan, đề nghị giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thm;

Bị cáo khai nhận hành vi phạm tội và giữ nguyên yêu cầu kháng cáo xin giảm hình phạt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu phát biểu quan điểm về vụ án: Bản án sơ thẩm đã xét xử đối với bị cáo Nguyễn Công D về tội “Đưa hối lộ”, bị cáo Lê Văn N về tội “Môi giới hối lộ” là có căn cứ và đúng pháp luật, mức án đã tuyên 02 năm tù là phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo không cung cấp được tài liệu hoặc chứng cứ nào mới làm căn cứ xin giảm hình phạt. Do vậy, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 Bộ luật Tố tụng Hình sự, không chấp nhận yêu cầu kháng cáo, giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng:

Đơn kháng cáo của bị cáo Lê Văn N, Phạm Cồng D3 gửi trong thời hạn luật định nên hợp lệ, được chấp nhận xem xét theo trình tự thủ tục phúc thẩm.

[2] Về tội danh và điều luật áp dụng:

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm và phù hợp với các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, thể hiện:

Nguyễn Công D biết rõ thửa đất do mình nhận chuyển nhượng là đất nông nghiệp, thuộc khu qui hoạch, không đủ điều kiện để xây dựng nhà ở nhưng vẫn thuê Lê Văn N xây dựng. Đồng thời D thỏa thuận với N và đã chuyền khoản cho N 100.000.000 đồng vào tháng 8/2020 với mục đích đưa hối lộ cho cán bộ làm công tác quản lý xây dựng để D xây dựng được căn nhà cấp 4 không phép có diện tích khoảng 60m2 trên đất nông nghiệp bên cạnh số nhà A đường Đ, Phường A, thành phố V. Bị cáo D đã thông qua người môi giới hối lộ là Lê Văn N thực hiện vai trò trung gian đưa tiền hối lộ cho Trịnh Văn Đ.

Bị cáo D khai nhận đưa 100.000.000 đồng cho N để nhờ người có chức vụ quyền hạn bỏ qua cho việc bị cáo xây dựng nhà trái phép và tiền nhân công và không biết N sẽ đưa bao nhiêu tiền cho người khác để bị cáo xây dựng được nhà trái phép. Tuy nhiên căn cứ các tài liệu chứng cứ trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra lại tại phiên tòa, Hội đồng xét xử có căn cứ xác định ý thức chủ quan của D khi thỏa thuận với N là đưa hối lộ số tiền cụ thể 100.000.000 đồng. Trên thực tế D đã chuyển khoản cho bị cáo N số tiền 100.000.000 đồng, việc N chỉ đưa cho bị cáo Đ 60.000.000 đồng và giữ lại số tiền 40.000.000 đồng là nằm ngoài ý thức chủ quan của bị cáo D. Mặc dù bị cáo Đ không sử dụng số tiền 60.000.000 đồng mà N đã đưa cho Đ để chia cho Lê Văn D2, Lê Bảo T, Đậu Mạnh T1 nhưng Đ đã lợi dụng ảnh hưởng của mình đối với D2, T, T1 để những người này không xử lý hành vi xây dựng nhà trái phép của D đúng như D đã yêu cầu.

Tòa án cấp sơ thẩm xét xử Nguyễn Công D phạm tội “Đưa hối lộ” theo quy định tại điểm e khoản 2 Điều 364 Bộ luật hình sự với tình tiết định khung hình phạt: “Của hối lộ trị giá từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng” là có căn cứ, đúng pháp luật.

Lê Văn N biết D cần xây dựng nhà trái phép, nên đã chủ động nhờ Đ giúp đỡ. Khi được Đ hứa sẽ giúp để D xây dựng được nhà trái phép và đưa ra yêu cầu về việc phải đưa tiền cho Đ thì N đã yêu cầu D chuyển 100.000.000 đồng để đưa hối lộ cho Đ. D đồng ý và đà chuyển khoản 100.000.000 đồng để N đưa hối lộ cho Đ. Nương với vai trò trung gian đã trực tiếp thực hiện việc thỏa thuận với bị cáo D nhằm đạt được sự thỏa thuận về của hối lộ, đồng thời trực tiếp thực hiện việc thỏa thuận với bị cáo Đ và đưa của hối lộ cho bị cáo Đ 60.000.000 đồng nhằm mục đích để Đ giúp D xây dựng được hoàn thiện nhà trái phép mà không bị xử lý. Nương biết rõ ý thức chủ quan của bị cáo D là đưa hối lộ số tiền cụ thể 100.000.000 đồng, nên bị cáo N cũng phải chịu trách nhiệm về hành vi môi giới hối lộ số tiền là 100.000.000 đồng.

Tòa án cấp sơ thẩm xét xử Lê Văn N phạm tội “Môi giới hối lộ” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 365 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Về kháng cáo xin được giảm nhẹ hình phạt của bị cáo:

Hành vi phạm tội các các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến hoạt động đúng đắn, đến uy tín của cơ quan nhà nước, ảnh hưởng xấu đến công tác quản lý về xây dựng nhà trái phép của chính quyền địa phương, ảnh hưởng tiêu cực đến công tác đấu tranh phòng chống tham nhũng của Đảng và nhà nước ta hiện nay. Do đó, cần thiết phải áp dụng hình phạt tương xứng, cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để giáo dục các bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.

Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải ; Nguyễn Công D đầu thú và áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với bị cáo N, áp dụng điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với bị cáo D và quyết định xử phạt mỗi bị cáo 02 (hai) năm tù là phù hợp, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội.

Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo không đưa ra được chứng cứ hoặc tình tiết nào mới làm căn cứ giảm nhẹ hình phạt. Vì vậy, Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo xin giảm án của các bị cáo, chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, giữ nguyên mức án mà cấp sơ thẩm đã tuyên.

[4] Về án phí hình sự phúc thm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên các bị cáo phải chịu án phí theo quy định.

[5] Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực từ khi hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng Hình sự.

1. Không chấp nhận kháng cáo của Nguyễn Công D, Lê Văn N, giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 233/2022/HSST ngày 12-9-2022 của Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.

Tuyên bố: bị cáo Nguyễn Công D phạm tội “Đưa hối lộ”; bị cáo Lê Văn N phạm tội “Môi giới hối lộ”.

Áp dụng điểm e khoản 2 Điều 364; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; các Điều 38, 50 Bộ luật hình sự;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Công D 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời hạn bị cáo đã bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 15/5/2021 đến ngày 04/8/2021.

Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 365; điểm s khoản 1 Điều 51; các Điều 38, 50 Bộ luật hình sự:

Xử phạt bị cáo Lê Văn N 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 14/5/2021.

2. Các quyết định khác của Bản án hình sự sơ thẩm số 233/2022/HSST ngày 12-9-2022 của Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ khi hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

3. Án phí hình sự phúc thẩm:

Các bị cáo Nguyễn Công D, Lê Văn N mỗi người phải nộp 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

36
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội môi giới hối lộ số 137/2022/HS-PT

Số hiệu:137/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/12/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về