TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 90/2021/HS-PT NGÀY 11/03/2021 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
Ngày 11 tháng 3 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 53/2021/HSPT ngày 08/02/2021 đối với bị cáo Lê Xuân P do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 06/2021/HS-ST ngày 07/01/2021 của Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh.
Bị cáo có kháng cáo:
Lê Xuân P, sinh năm 1996 tại Gia Lai; nơi thường trú: 70 Ngô M, phường Đ, thị xã A, tỉnh Gia Lai; trình độ văn hóa: 12/12; nghề nghiệp: không; dân tộc: kinh; tôn giáo: không; giới tính: nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn H và bà Thái Thị H; chưa có vợ, con; tiền sự: không;
Tiền án:
- Ngày 29/01/2012, phạm tội “Trộm cắp tài sản”, Tòa án nhân dân thị xã AyunPa, tỉnh Gia Lai xử phạt 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 24 tháng.
- Ngày 29/4/2014, phạm tội “Trộm cắp tài sản” và “Đánh bạc”, Tòa án nhân dân thị xã AyunPa, tỉnh Gia Lai xử phạt tổng hợp hình phạt là 5 năm tù giam. Ngày 02/9/2018 đã chấp hành xong và đã đóng án phí.
Bị tạm giam ngày 27/06/2020. (có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng đầu tháng 5/2020, do có nhu cầu chuyển hàng đi nước ngoài nên qua mạng Zalo Huỳnh Thị Ý Nhi tìm hiểu, liên hệ với Lê Xuân P. Biết nhu cầu của chị Nhi nên P tự nhận mình là nhân viên Công ty vận chuyển quốc tế TTI Express, địa chỉ: 70 đường số 2, phường An Lạc, quận Bình Tân để Nhi tin tưởng. Do đang cần tiền trả nợ nên P thỏa thuận giao dịch với Nhi vận chuyển 02 thùng hàng đi nước Đức và nước Anh vào ngày 19/5/2020 với tiền cước là 83.016.970 đồng, chuyển 01 thùng hàng đi nước Mỹ vào ngày 20/5/2020 với tiền cước là 25.650.000 đồng. Chị Nhi đến số 132-134 Nguyễn Gia Trí, Phường 25, quận Bình Thạnh chuyển khoản tiền cước từ tài khoản của mình 3630857 mở tại ngân hàng ACB đến tài khoản 19034061181019 tên Lê Xuân P tại Ngân hàng Techcombank. Tổng cộng, Nhi chuyển cho P 02 lần với số tiền cước là 108.666.970 đồng. Sau khi nhận tiền, P lập tức chuyển số tiền trên từ tài khoản 19034061181019 tên Lê Xuân P tại Ngân hàng Techcombank đến tài khoản mang tên "PHAM THI LA" tại Ngân hàng Techcombank, nhưng không thực hiện việc chuyển hàng cho Nhi mà gửi 03 thùng hàng trên vào kho vận chuyển của Công ty HTC. Sau đó, P bỏ số điện thoại 0989247479 và cắt liên lạc với Nhi để chiếm đoạt số tiền cước trên. Đến ngày 21/5/2020, chị Nhi được Công ty HTC thông báo là hàng hóa của chị gửi lại kho HTC chưa được thanh toán tiền vận chuyển nên chưa chuyển đi được. Chị Nhi kể lại chuyện bị P chiếm đoạt số tiền vận chuyển trên cho anh Nguyễn Ngọc Thành, anh Thành đã nói với các bảo vệ tại kho hàng nếu phát hiện P thì giữ lại để trình báo Công an.
Đến ngày 27/6/2020, anh Bùi Trung Dũng và anh Nguyễn Thế Hân (cùng là bảo vệ kho hàng của anh Thành) phát hiện P nên đã giữ lại và trình báo Công an Phường 4, quận Tân Bình. Công an quận Tân Bình lập hồ sơ chuyển Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Bình Thạnh thụ lý theo thẩm quyền.
Tại Cơ quan điều tra, Lê Xuân P đã thừa nhận hành vi phạm tội như trên. Về trách nhiệm dân sự: bị hại Huỳnh Thị Ý Nhi yêu cầu bồi thường số tiền 108.660.971 đồng đã bị chiếm đoạt, bị cáo P chưa bồi thường.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 06/2021/HS-ST ngày 07/01/2021 của Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:
Tuyên bố bị cáo Lê Xuân P phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
Áp dụng điểm c, d khoản 2 Điều 174; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt Lê Xuân P 05 năm 06 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 27/06/2020.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên giải quyết về trách nhiệm dân sự, nghĩa vụ thi hành án, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.
Ngày 18/01/2021, bị cáo Lê Xuân P có đơn kháng cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa phúc thẩm ngày hôm nay, bị cáo Lê Xuân P không thừa nhận những hành vi phạm tội do bị cáo gây ra như nội dung bản án sơ thẩm đã nêu, bị cáo thay đổi nội dung kháng cáo, không kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, mà kháng cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét lại toàn bộ vụ án, bị cáo không có hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của bị hại, cấp sơ thẩm xét xử và tuyên phạt bị cáo là không đúng.
Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xác định bản án sơ thẩm đã áp dụng đúng các căn cứ pháp luật để xử phạt bị cáo Lê Xuân P về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm c, d khoản 2 Điều 174 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, sau khi xét xử sơ thẩm bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt trong thời gian hợp lệ. Tại phiên tòa bị cáo thay đổi nội dung kháng cáo không xin giảm nhẹ hình phạt mà đề nghị xem xét lại toàn bộ vụ án, bị cáo cho rằng bị cáo không lừa đảo chiếm đoạt tiền của bị hại. Xét đề nghị của bị cáo là không có căn cứ chấp nhận bởi vì quá trình điều tra, thu thập chứng cứ đều thực hiện đúng quy định của pháp luật, trong các bản tự khai, biên bản ghi lời khai, biên bản hỏi cung bị cáo đều thừa nhận hành vi phạm tội, kết quả điều tra xác định bị cáo đã có hành vi gian dối và chiếm đoạt tài sản của bị hại Huỳnh Thị Ý Nhi. Mức án 05 năm 06 tháng tù mà Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên đối với bị cáo là phù hợp. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Bị cáo Lê Xuân P không tranh luận, chỉ nói lời sau cùng xin giảm nhẹ hình phạt để sớm được trở về gia đình, hòa nhập xã hội.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Bình Thạnh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân quận Bình Thạnh, Kiểm sát viên, Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh, Thẩm phán trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Tại các bản tự khai, biên bản ghi lời khai, bị cáo đều trình bày lời khai hoàn toàn tự nguyện, không bị ép cung, nhục hình. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa phúc thẩm ngày hôm nay, bị cáo Lê Xuân P không thừa nhận hành vi sai trái do bị cáo gây ra như nội dung bản án sơ thẩm đã nêu. Bị cáo cho rằng do bị hại Huỳnh Thị Ý Nhi tự chuyển tiền vào tài khoản của bị cáo nên bị cáo đã rút ra tiêu xài chưa có tiền trả lại cho bị hại. Tuy nhiên, căn cứ vào lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và các biên bản hoạt động điều tra, biên bản hỏi cung bị can, lời khai của người bị hại và các tài liệu chứng cứ xác định về việc nhận tiền, chuyển tiền của bị hại, tang vật chứng khác, đã có đủ cơ sở xác định: do cần tiền để trả nợ và thấy chị Huỳnh Thị Ý Nhi có nhu cầu chuyển hàng đi nước ngoài nên Lê Xuân P đã mạo nhận là nhân viên công ty vận chuyển Công ty vận chuyển quốc tế TTI Express để chị Nhi tin tưởng gửi hàng hóa đi nước ngoài, khi chị Nhi chuyển tiền cước vận chuyển vào tài khoản thì bị cáo sẽ chiếm đoạt. Ngày 19/5/2020, chị Nhi thỏa thuận và nhờ P vận chuyển 02 thùng hàng đi nước Đức và nước Anh với tiền cước là 83.016.970 đồng, ngày 20/5/2020 chuyển 01 thùng hàng đi nước Mỹ với tiền cước là 25.650.000 đồng. Chị Nhi đã chuyển tổng số tiền cước là 108.666.970 đồng vào tài khoản 19034061181019 tên Lê Xuân P tại Ngân hàng Techcombank. Sau khi nhận tiền, P lập tức chiếm đoạt, không thực hiện việc chuyển hàng cho Nhi mà gửi 03 thùng hàng trên vào kho vận chuyển của Công ty HTC rồi thay đổi số điện thoại, cắt liên lạc với chị Nhi. Tổng giá trị tài sản bị cáo chiếm đoạt được là 108.666.970 đồng.
Do trước đó có 02 tiền án chưa được xóa án tích, đã tái phạm mà lại phạm tội mới nên lần phạm tội này của bị cáo thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm. Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên xử bị cáo phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm c, d khoản 2 Điều 174 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 là đúng người, đúng tội, không oan sai.
[3] Tòa án cấp sơ thẩm đã xác định bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và xem xét cho bị cáo tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: quá trình điều tra và tại phiên tòa đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải theo điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 là đúng quy định.
[4] Xét đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và lời trình bày của bị cáo tại phiên tòa: Hội đồng xét xử xét thấy ngoài các tình tiết giảm nhẹ mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét cho bị cáo như kể trên, thì bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ nào mới chưa được xem xét. Hành vi phạm tội của bị cáo không những xâm hại đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của người khác mà còn xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội. Trong lần phạm tội này, mặc dù các tiền án đối với bị cáo đã được tính là tình tiết định khung hình phạt nên không tính là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, nhưng với việc bị cáo liên tục phạm tội đã thể hiện bị cáo là người bất chấp và coi thường pháp luật. Mức án 05 năm 06 tháng tù mà Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên đối với bị cáo là phù hợp, tương xứng với tính chất, mức độ vi phạm của hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra. Do đó, Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên mức hình phạt mà bản án sơ thẩm đã tuyên.
thẩm.
Do không chấp nhận kháng cáo nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc Các vấn đề khác không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật tố tụng hình sự; Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lê Xuân P, giữ nguyên bản án sơ thẩm số 06/2021/HS-ST ngày 07/01/2021 của Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh.
Tuyên bố bị cáo Lê Xuân P phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
Áp dụng điểm c, d khoản 2 Điều 174; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt Lê Xuân P 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 27/6/2020.
Căn cứ Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội Bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự phúc thẩm.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án
Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 90/2021/HS-PT
Số hiệu: | 90/2021/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 11/03/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về