Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 73/2024/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 73/2024/HS-PT NGÀY 26/01/2024 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 26 tháng 01 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 826/2023/TLPT-HS ngày 19 tháng 10 năm 2023 đối với bị cáo Vương Thanh L do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 25/2023/HS-ST ngày 11/9/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Đ.

- Bị cáo có kháng cáo:

Vương Thanh L, sinh năm 1972, tại Đ; tên gọi khác: Tài; nơi thường trú: Khóm Mỹ T, phường Mỹ P, thành phố Cao L, tỉnh Đ; chỗ ở hiện tại: Ấp 3, xã Mỹ T, thành phố Cao L, tỉnh Đ; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 08/12; nghề nghiệp: Tài xế; con ông Vương Hy Ch (đã chết) và bà Lưu Thị B (đã chết); có vợ là bà Phạm Thùy D, sinh năm 1972 (đã ly hôn năm 2019); có 03 người con, nhỏ nhất sinh năm 2009, lớn nhất sinh năm 1996; nhân thân: Ngày 28/8/2014 bị Tòa án nhân dân tỉnh Đ xử phạt 09 tháng tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản (đã xóa án tích); tiền án: Theo Bản án hình sự phúc thẩm số 48/2020/HS-PT ngày 11/02/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Đ xử phạt 01 năm tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, thời gian thử thách 02 năm tính từ ngày 11/10/2019; tiền sự: Không; bị tạm giữ ngày 15/9/2022; bị tạm giam ngày 20/9/2022;

bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Luật sư bào chữa cho bị cáo Vương Thanh L: Ông Hồ Hoài Nh là Luật sư của Công ty TNHH MTV Trường M, thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh; có mặt.

- Ngoài ra, trong vụ án này còn có Người bị hại, Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không có kháng cáo, không liên quan tới kháng cáo nên Tòa án không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo Bản án sơ thẩm, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng năm 2000, bị cáo Vương Thanh L là thợ cơ khí tại nhà máy 3/2 huyện Cao Lãnh do ông Lê Minh Tr làm giám đốc, đến năm 2003 bị cáo L xin nghỉ việc về làm nghề lái xe tại Bệnh Viện Đa khoa tỉnh Đ. Khoảng đầu tháng 3 năm 2022, ông Tr gặp lại L tại thành phố Cao Lãnh, bị cáo L nói với ông Tr mình có quan hệ thông gia với ông Phạm Thiện Ng, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Đ và có quan hệ thân thiết với ông Lê Quốc Ph, Bí thư tỉnh ủy Đ và bị cáo L chủ động xin số điện thoại của ông Tr để liên lạc. Sau đó, bị cáo L mua sim số điện thoại 0776525X gọi vào số máy 09391X90 của ông Tr tự xưng là Lê Quốc Ph, Bí thư tỉnh ủy Đ và nói do L giới thiệu, muốn làm quen với ông Tr. Do tin tưởng, ông Tr thường xuyên gọi điện thoại nói chuyện và có ý muốn gặp mặt nhưng bị cáo L viện lý do từ chối. Thời gian này, ông Tr có nói với ông Phạm Hoàng A việc mình quen với ông Lê Quốc Ph, Bí thư tỉnh ủy Đ nên ông A muốn làm quen và xin số điện thoại và sử dụng số điện thoại của mình 0973446X gọi vào số 0776525X của bị cáo L nhưng bị cáo L không nghe máy vì thấy số lạ, sau đó bị cáo L gọi lại cho ông Trí hỏi có cho ai số điện thoại 0776525X không thì ông Tr nói có cho ông Phạm Hoàng A, Giám đốc Công ty Thuận A vì ông A muốn làm quen với Bí thư tỉnh ủy Đ. Lúc này bị cáo L nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản nên chủ động gọi điện lại làm quen với ông A. Bị cáo L lấy danh nghĩa Bí thư tỉnh ủy Đ để kết nghĩa anh em với ông Tr và ông L nhằm mục đích lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Bị cáo L giả danh Bí thư tỉnh ủy Đ nói dối ông A là mẹ bị bệnh tim đang cần gấp số tiền lớn phẩu thuật nên hỏi mượn tiền của ông A lo cho mẹ; ông A tưởng thật nên đồng ý và bị cáo L (giả danh Ph) căn dặn ông L cứ đưa tiền cho L sẽ đưa lại cho mình (cho ông Phong do L giả danh). Ông A đã nhiều lần đưa tiền cho L với tổng số tiền 310.000.000 đồng. Cụ thể:

Trong khoảng thời gian từ ngày 14/4/2022 đến ngày 13/8/2022, ông L đưa tiền mặt và chuyển khoản cho ông Tr 12 lần với số tiền 310.000.000 đồng, trong đó có một lần đưa cho ông Phạm Ngọc M là tài xế riêng của L 40.000.000 đồng. Sau khi nhận tiền, ông Tr và M đưa toàn bộ số tiền này lại cho bị cáo L tại trước Bưu điện tỉnh Đ và khu vực chợ Mỹ Ng, thành phố Cao L.

Cũng trong khoản thời gian trên, bị cáo L biết được việc ông Phạm Hoàng L có ý định đầu tư vào lĩnh vực bất động sản tại thành phố Hồ Chí Minh nên tiếp tục giả danh ông Trần Hồng H, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường, để chiếm đoạt tiền của ông A. Bị cáo L giả danh ông Lê Quốc Ph, Bí thư tỉnh ủy Đ nói với ông A là có quan hệ thân thiết với Bộ trưởng bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng H, đồng thời hứa sẽ giới thiệu ông L làm quen. Sau đó, bị cáo L sử dụng số điện thoại 07878X09 gọi cho cho ông A tự xưng Bộ trưởng bộ Tài nguyên và Môi trường nói là được ông Lê Quốc Ph, Bí thư tỉnh ủy Đ giới thiệu, ông L tin tưởng là thật nên đồng ý làm quen. Bị cáo L nói với ông A là vợ đang điều trị bệnh tại Singapore, chi phí điều trị rất lớn nên hỏi mượn tiền của ông A. Trong khoảng thời gian từ ngày 16/8/2022 đến ngày 29/8/2022 ông A nhiều lần chuyển tiền cho nhiều người rút tiền đưa cho bị cáo L với số tiền 350.000.000 đồng, cụ thể từng lần như sau:

- Lần 1: Ngày 18/6/2022 , bị cáo L giả danh ông Trần Hồng H, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường, mượn ông A 50.000.000 đồng, ông A đồng ý và yêu cầu cung cấp số tài khoản để chuyển tiền, bị cáo L gọi điện cho Lê Văn C là tài xế trước cổng Bệnh viện Đa khoa Đ hỏi mượn tài khoản ngân hàng Vietcombank số 109872671953 của C để người nhà chuyển tiền rồi rút đưa cho L mang lên thành phố Hồ Chí Minh do có người họ hàng chết đang cần tiền gấp, ông C nghe vậy đồng ý cho L mượn tài khoản. L cung cấp số tài khoản của C cho ông L để chuyển vào tài khoản của C 50.000.000 đồng,; sau khi biết ông A đã chuyển tiền, bị cáo L gọi điện hối thúc C rút tiền đưa cho mình nhưng ông C nói đến sáng hôm sau ngân hàng mở cửa mới rút được. Ngày hôm sau, ông C đến Ngân hàng Vietcombank rút 50.000.000 đồng đưa cho L tại trước Bệnh Viện đa khoa tỉnh Đ, bị cáo L cho C 500.000 đồng tiền công. Do ông C biết trước đây bị cáo L từng có tiền án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nên các cuộc gọi điện thoại với L thì C đều ghi âm lại; sau khi biết số tiền trên là do L phạm tội mà có nên C đã giao nộp 500.000 đồng cho Cơ quan điều tra.

- Lần 2: Ngày 20/8/2022, bị cáo L tiếp tục giả danh ông Trần Hồng H, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường hỏi mượn ông Lâm 150.000.000 đồng để trị bệnh cho vợ, ông A đồng ý và yêu cầu cung cấp tài khoản để chuyển tiền thì bị cáo L hỏi mượn tài khoản của cháu vợ là Nguyễn Minh Th tại Ngân hàng Sacombank số 070094705401. Bị cáo L đưa số tài khoản này cho ông A và ông A tiếp tục chuyển vào tài khoản của Nguyễn Minh Th 150.000.000 đồng. Nhận được tiền thì Th đến cây ATM gần nhà rút được 20.000.000 đồng. Toàn bộ số tiền này đã được giao cho bị cáo L.

- Lần 3: Ngày 25/8/2022, cũng tương tự như thủ đoạn trên, bị cáo L yêu cầu ông A chuyển vào tài khoản của Th số tiền 50.000.000 đồng, Th rút tiền rồi đến trước cổng Bệnh viện đa khoa Đ đưa cho L và L cho Th 300.000 đồng tiền công.

- Lần 4: Ngày 29/8/2022, bị cáo L tiếp tục gọi điện tự xưng là Trần Hồng H, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường để mượn 100.000.000 đồng của ông L. Ông A sử dụng tài khoản số 097344X6 mở tại Ngân hàng Quân đội chuyển vào tài khoản Sacombank của Nguyễn Minh Th 100.000.000 đồng. Khi nhận được tiền thì Th đến ngân hàng Techcombank rút đủ 100.000.000 đồng đưa cho bị cáo L trước Bệnh viện Đa khoa Đ, bị cáo L cho Th 500.000 đồng tiền công. Sau khi biết các khoản tiền trên là do bị cáo L phạm tội mà có thì Th đã giao nộp lại 800.000 đồng cho Cơ quan điều tra.

Như vậy, bằng thủ đoạn gian dối trên Vương Thanh L đã chiếm đoạt của ông Phạm Hoàng A với số tiền tổng cộng là 660.000.000 đồng.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 25/2023/HS-ST ngày 11/9/2023, Tòa án nhân dân tỉnh Đ quyết định:

- Áp dụng: Điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s khoản 1 Điều 51; điểm g, h khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tuyên bố bị cáo Vương Thanh L phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Xử phạt bị cáo Vương Thanh L 14 (mười bốn) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 15/9/2022.

- Áp dụng: Điều 48 Bộ luật hình sự 2015; Điều 589 Bộ luật dân sự năm 2015: Buộc bị cáo Vương Thanh L bồi thường cho ông Phạm Hoàng A số tiền 660.000.000 đồng.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Ngày 13/9/2023, bị cáo Vương Thanh L kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Vương Thanh L giữ nguyên kháng cáo, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm giảm nhẹ hình phạt với lý do bị cáo không chiếm đoạt số tiền 310.000.000 đồng khi giả danh Bí thư tỉnh ủy Đ.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm:

- Về tố tụng: Hội đồng xét xử và tham gia phiên tòa đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự.

- Về nội dung: Tại phiên tòa phúc thẩm, mặc dù bị cáo chỉ thừa nhận chiếm đoạt số tiền 350.000.000 khi giả danh Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường mà không thừa nhận hành vi chiếm đoạt số tiền 310.000.000 đồng khi giả danh Bí thư tỉnh ủy Đ, tuy nhiên căn cứ vào lời khai của Người bị hại và Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên thì có đủ cơ sở xác định bị cáo đã chiếm đoạt số tiền này của ông Phạm Hoàng A. Với tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo thì cần phải giữ nguyên mức án 14 năm tù là cần thiết để răn đe và phòng ngừa chung. Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo và giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Luật sư bào chữa cho bị cáo Vương Thanh L trình bày: Theo đơn tố giác tội phạm gửi Cơ quan điều tra, ông Phạm Hoàng A trình bày rằng đã đưa cho ông Tr tổng cộng 15 lần với số tiền 357.000.000 đồng để đưa cho L, nhưng tại Cơ quan điều tra thì ông Tr khai chỉ nhận tổng cộng 12 lần với số tiền 310.000.000 đồng từ ông L sau đó giao lại cho bị cáo L. Như vậy, khoản tiền này chưa được xác định thống nhất là bao nhiêu và ông Tr cũng không chứng minh được đã giao khoản tiền 310.000.000 đồng cho bị cáo L, nên chưa đủ căn cứ kết tội bị cáo cáo L. Trường hợp này cần áp dụng nguyên tắc suy đoán có lợi cho bị cáo, xác định bị cáo chỉ chiếm đoạt số tiền 350.000.000 đồng và áp dụng Điều 54, khoản 3 Điều 174 Bộ luật hình sự năm 2015 để xử phạt bị cáo với mức án nhẹ hơn là phù hợp. Từ đó, đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo Vương Thanh L.

Bị cáo Vương Thanh L trình bày: Đề nghị Hội đồng xét xử giảm án cho bị cáo vì bị cáo không chiếm đoạt số tiền 310.000.000 đồng của ông Phạm Hoàng A.

Bị cáo Vương Thanh L nói lời nói sau cùng: Bị cáo xin Quí Tòa xem xét giảm án cho bị cáo vì bị cáo không nhận số tiền 310.000.000 đồng từ ông Tr.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án; kết quả được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Đơn kháng cáo của bị cáo Vương Thanh L đúng luật định, hợp lệ nên được xem xét theo trình tự phúc thẩm.

[2] Căn cứ vào lời khai của bị cáo Vương Thanh L, lời khai của Người bị hại Phạm Hoàng A và lời khai của Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Lê Minh Tr trong quá trình điều tra, có cơ sở xác định: Trong khoảng thời gian từ ngày 14/4/2022 đến ngày 29/8/2022, bị cáo L đã nhiều lần sử dụng thủ đoạn gian dối dưới hình thức giả danh Bí thư tỉnh ủy Đ, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường để thực hiện hành vi chiếm đoạt số tiền 660.000.000 đồng của ông Phạm Hoàng A.

Với hành vi phạm tội nêu trên, bị cáo Vương Thanh L đã bị Tòa án cấp sơ thẩm xét xử về tội danh “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại khoản 4 Điều 174 Bộ luật hình sự năm 2015 là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm; bị cáo Vương Thanh L chỉ thừa nhận một phần hành vi phạm tội của mình là đã chiếm đoạt số tiền 350.000.000 đồng của ông Phạm Hoàng A; còn đối với khoản tiền 310.000.000 đồng thì bị cáo cho rằng không nhận từ ông Lê Minh Tr. Tuy nhiên kết quả điều tra xác định có đủ cơ sở kết luận ông A đã giao cho ông Tr tổng cộng 12 lần với số tiền 310.000.000 đồng để ông Tr giao lại cho bị cáo L; mỗi lần ông A chuyển tiền cho ông Tr đều xuất phát từ yêu cầu của bị cáo L; trong 12 lần giao tiền này, bị cáo L đều không có phản hồi lại với ông A nếu cho rằng không nhận được tiền từ ông Tr. Mặt khác, tại Cơ quan điều tra, bị cáo L khai nhận việc giả danh Bí thư Tỉnh ủy Đ là để nhằm mục đích “mượn” tiền nhưng thực chất là chiếm đoạt tiền của ông A; sau khi thực hiện hành vi chiếm đoạt tiền với danh nghĩa là Bí thư Tỉnh ủy Đ, bị cáo L tiếp tục thủ đoạn trên dưới danh nghĩa Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường để chiếm đoạn tiền của ông A.

Như vậy, xâu chuỗi toàn bộ hành vi của bị cáo L từ khi làm quen cho tới thời điểm chiếm đoạt tiền của Người bị hại là phù hợp với diễn biến thực tế hành vi phạm tội của bị cáo L và phù hợp với lời khai của ông A, ông Tr nên có đủ cơ sở xác định bị cáo L đã chiếm đoạt số tiền 310.000.000 đồng của ông A dưới danh nghĩa mạo danh Bí thư Tỉnh ủy Đ. Do đó, Hội đồng xét xử không chấp nhận trình bày kêu oan về hành vi chiếm đoạt số tiền này đối với bị cáo L.

[4] Xét hành vi phạm tội của bị cáo L là đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, bị cáo đã trưởng thành, nhận thức đầy đủ được hành vi vi phạm pháp luật của mình, nhưng vì động cơ vụ lợi nên bị cáo đã quyết tâm thực hiện tội phạm tới cùng. Trên thực tế, bị cáo L đã chiếm đoạt được 660.000.000 đồng của Người bị hại Phạm Hoàng A. Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm trực tiếp tới khách thể được pháp luật bảo vệ là quyền sở hữu tài sản công dân; thông qua hành vi phạm tội, bị cáo còn góp phần làm mất trật tự trị an địa phương; nghiêm trọng hơn, bị cáo còn giả danh những cán bộ cao cấp của Đảng và Nhà nước để thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản là thể hiện thái độ bất chấp, coi thường pháp luật, làm ảnh hưởng tới uy tín của cán bộ Đảng, Nhà nước. Vì vậy, cần phải xử phạt bị cáo nghiêm khắc để giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung.

[5] Trong vụ án này, bị cáo L thực hiện hành vi phạm tội nhiều lần; trước đó bị cáo đã có tiền án về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” chưa được xóa án tích nhưng lại tiếp tục phạm tội là thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm, vì vậy bị cáo bị áp dụng các tình tiết tăng nặng theo quy định tại điểm g, h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015. Tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo thừa nhận một phần hành vi phạm tội của mình và đã khắc phục một phần hậu quả, bồi thường cho Người bị hại 20.000.000 đồng nên được hưởng các tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

[6] Tòa án cấp sơ thẩm sau khi xem xét áp dụng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ quyết định xử phạt bị cáo với mức án 14 năm tù là tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo L kháng cáo xin giảm án nhưng không xuất trình được tình tiết giảm nhẹ đặc biệt nào mới nên Hội đồng xét xử không có cơ sở xem xét, chấp nhận.

[7] Với các căn cứ trên, Hội đồng xét xử xét thấy đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh là có căn cứ nên chấp nhận.

[8] Về án phí: Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo Vương Thanh L phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[9] Các quyết định khác của Bản án hình sự sơ thẩm số 25/2023/HS-ST ngày 11 tháng 9 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Đ không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ: Điểm a khoản 1 Điều 355 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Vương Thanh L và giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 25/2023/HS-ST ngày 11 tháng 9 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Đ về hình phạt đối với bị cáo Vương Thanh L.

- Áp dụng: Điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s khoản 1 Điều 51; điểm g, h khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015.

1. Xử phạt bị cáo Vương Thanh L 14 (mười bốn) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày 15 tháng 9 năm 2022.

Tiếp tục tạm giam bị cáo Vương Thanh L 45 (bốn mươi lăm) ngày để đảm bảo thi hành án.

2. Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Vương Thanh L phải chịu 200.000 đồng.

3. Các quyết định khác của Bản án hình sự sơ thẩm số 25/2023/HS-ST ngày 11 tháng 9 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Đ không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

48
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 73/2024/HS-PT

Số hiệu:73/2024/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về