Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 727/2023/HS-PT

TOÀ ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI

BẢN ÁN 727/2023/HS-PT NGÀY 20/09/2023 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 20 tháng 9 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Q, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội mở phiên tòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 751/2023/TLPT-HS ngày 24 tháng 7 năm 2023 đối với bị cáo Phạm Xuân Tr, bị xét xử sơ thẩm về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 65/2023/HS-ST ngày 07 tháng 6 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Q.

* Bị cáo có kháng cáo:

Phạm Xuân Tr; sinh ngày 24/7/1980 tại Q; nơi cư trú: Tổ 2, khu 6, phường Cẩm Th, thành phố C, tỉnh Q; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; trình độ học vấn: Lớp 12/12; nghề nghiệp trước khi bị bắt: Tổng giám đốc Công ty cổ phần tập đoàn đầu tư phát triển công nghiệp TTP (thôi việc từ ngày 05/8/2022); con ông Phạm Xuân Th1 và bà Phạm Thị B; có vợ là Ngô Thị H và có 02 con; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 14/8/2022 đến nay; có mặt.

* Người bào chữa cho bị cáo do chỉ định của Tòa án: Luật sư Đào Bá Y - Văn phòng luật sư Ánh A, Đoàn luật sư tỉnh Q; có mặt.

Ngoài ra, trong vụ án còn có những người bị hại và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không kháng cáo, không bị kháng nghị, Tòa án không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Năm 2018, Công ty cổ phần tập đoàn đầu tư phát triển công nghiệp TTP (viết tắt là Công ty TTP) do ông Bùi Văn B1 là Chủ tịch Hội đồng quản trị, trúng thầu Dự án khu đô thị thương mại dịch vụ Bái Tử Long I - thành phố C (gọi tắt là Dự án). Quy mô Dự án thực hiện trên diện tích 39,33 ha gồm các lô đất và nhà ở như Biệt thự (BT), Liền kề (LK), Shophouse (SH). Năm 2019, dự án bắt đầu được khởi công xây dựng. Đến ngày 29/4/2020, Dự án được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Q kiểm tra, thẩm định và xác nhận đủ điều kiện chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với một số ô đất bằng Thông báo số 2460/TNMT- ĐKKD. Theo đó, kể từ ngày 29/4/2020, Dự án chính thức đủ điều kiện mở bán, tổ chức bán hàng đối với các sản phẩm đủ điều kiện.

Ngày 14/10/2019, Công ty TTP họp đại hội đồng cổ đông, ra Nghị quyết thống nhất ủy quyền cho Công ty cổ phần địa ốc PTC phát triển và phân phối sản phẩm của Dự án. Đồng thời quán triệt tất cả các cổ đông của Công ty, thành viên Hội đồng quản trị, Ban Tổng giám đốc, các trưởng, phó phòng ban liên quan không được lấy danh nghĩa cá nhân để hứa hẹn với khách hàng về việc bán hàng tại Dự án, không được nhận tiền đặt cọc, không nhận tiền đặt mua sản phẩm Dự án theo dạng “suất ngoại giao”, “suất ưu tiên”… hoặc hành vi khác nhận tiền từ khách hàng để hứa hẹn bán hàng của Dự án mà không thông qua Công ty PTC. Đối với tất cả các trường hợp sản phẩm ngoại giao phải được thông qua Đại hội đồng cổ đông trước khi tổ chức thực hiện. Công ty PTC hợp đồng ký kết với Công ty Đ phân phối, chào bán sản phẩm bất động sản trong Dự án.

Phạm Xuân Tr ký hợp đồng lao động với Công ty TTP từ năm 2016. Tr không có cổ phần trong Công ty mà làm việc được trả lương theo tháng. Đến tháng 01/2019, Tr được bổ nhiệm chức vụ Tổng giám đốc Công ty TTP, nhiệm vụ theo sự chỉ đạo của lãnh đạo Công ty và Hội đồng quản trị. Tr không được Công ty TTP giao nhiệm vụ chào bán các sản phẩm của Dự án, cũng như không được Công ty TTP đồng ý cho mua sản phẩm nào của Dự án với suất ngoại giao, suất ưu tiên, nhưng trong khoảng thời gian từ tháng 9/2019 đến tháng 7/2022, Tr đã lợi dụng danh nghĩa là Tổng giám đốc Công ty TTP, để đưa ra thông tin gian dối, nói với khách hàng có nhu cầu mua đất tại Dự án là Tr có thể mua được các sản phẩm (đất nền) với giá rẻ, giá ưu đãi hoặc có thể can thiệp, tác động và xin ông Nguyễn Anh T (Chủ tịch hội đồng cổ đông) mua được ô đất Dự án với giá “nội bộ” (giá thấp hơn so với giá trị sản phẩm ô đất Công ty chào bán thực tế tại thời điểm đó), sau đó lập văn bản thoả thuận và nhận tiền đặt cọc mua các ô đất nền của nhiều người với số tiền từ 150.000.000 đồng đến 4.900.000.000 đồng. Giá ô đất ở các văn bản thoả thuận do Tr tự đưa ra. Tr thoả thuận và cam kết đứng ra mua được ô đất đứng tên những người giao tiền cho Tr. Sau khi mua được đất, thì Tr cùng với người mua đất tìm khách bán, lấy tiền chênh lệch chia nhau. Nhiều người tin Tr nói thật, đã ký văn bản thoả thuận và giao tiền cho Tr. Nhưng sau khi nhận tiền, Tr không thông báo, không nộp tiền về Công ty, mà sử dụng trả nợ, chi tiêu cá nhân và đánh bạc. Một phần, Tr dùng chính số tiền đó trả lại cho các bị hại nói là trả “lãi” hoặc tiền “phạt cọc” để các bị hại tin là Tr đang thực hiện theo văn bản thoả thuận đã ký kết với họ, không nghi ngờ gì Tr cũng như không yêu cầu lấy lại tiền cho đến hết thời hạn thoả thuận. Tổng số Tr đã chiếm đoạt tiền của 30 người bằng hình thức lập biên bản thoả thuận (viết tắt là BBTT) hoặc biên nhận góp vốn (viết tắt là BNGV) vào tiền cọc để đầu tư bất động sản (viết tắt là ĐTBĐS), với tổng số tiền 40.950.000.000 đồng.

Ngày 05/8/2022, trước khi các bị hại phát hiện hành vi gian dối chiếm đoạt tiền của Tr, Tr chủ động viết đơn xin thôi việc tại Công ty TTP và được Công ty TTP ra quyết định bãi miễn chức vụ Tổng giám đốc, cho thôi việc từ ngày 05/8/2022.

Đến ngày 13/8/2022, Tr đến Công an tỉnh Q tự thú khai nhận hành vi gian đối chiếm đoạt tiền đặt cọc mua các ô đất của các khách hàng.

Tại Kết luận giám định số 165/KLGĐ-KTHS ngày 10/02/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Q, kết luận:

- Chữ ký mang tên “Phạm Xuân Tr” trong các tài liệu cần giám định ký hiệu từ A01 đến A37 so với chữ ký mang tên “Phạm Xuân Tr” trong các tài liệu mẫu so sánh ký hiệu M01, M02, M03 là do cùng một người ký ra.

- Chữ viết “Phạm Xuân Tr” dưới chữ ký trong các tài liệu cần giám định ký hiệu từ A01 đến A19, từ A21 đến A33 và chữ viết trong các tài liệu cần giám định ký hiệu từ A34 đến A37 so với chữ viết (trừ các chữ “Điều tra viên tiếp nhận”, “Điều tra viên”, “Nguyễn Thanh Tùng”) trong các tài liệu mẫu so sánh ký hiệu M01, M02, M03 là do cùng một người viết ra.

Sau khi nhận tiền của bị hại, Tr đã trả lãi, tiền phạt cho các bị hại tổng số tiền 1.455.900.000 đồng, (gồm: Trần Minh Đ 18.000.000 đồng, Đinh Quang H 15.000.000 đồng, Đỗ Xuân Tr1 30.000.000 đồng, Phạm Đức Tr2 25.900.000 đồng, Phạm Bá D 400.000.000 đồng, Bùi Văn Th2 28.000.000 đồng, Tạ Thị H1 55.500.000 đồng, Nguyễn Văn H2 30.000.000 đồng, Nguyễn Huy C 85.000.000 đồng, Vũ Nguyên H3 700 triệu tiền gốc 52.500.000 đồng tiền lãi. Đoàn Văn Th3 16.000.000 đồng), còn lại Tr chưa trả.

Cáo trạng số 44/CT-VKSQN-P2 ngày 12/04/2023 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Q đã truy tố bị cáo Phạm Xuân Tr về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật Hình sự.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 65/2023/HSST ngày 07/6/2023, Tòa án nhân dân tỉnh Q đã quyết định: Tuyên bố bị cáo Phạm Xuân Tr phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”; Căn cứ điểm a khoản 4 Điều 174; điểm s, r khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm c, g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự; Xử phạt bị cáo Phạm Xuân Tr tù Chung thân, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 14/8/2022.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và tuyên quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 14/6/2023, bị cáo Phạm Xuân Tr có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt;

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Phạm Xuân Tr vẫn giữ nguyên nội dung kháng cáo, bị cáo thành khẩn khai báo và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét các tình tiết giảm nhẹ để giảm hình phạt cho bị cáo.

Người bào chữa cho bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét thái độ thành khẩn khai báo của bị cáo và các tình tiết giảm nhẹ mới để giảm một phần hình phạt cho bị cáo Tr.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội có quan điểm: Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Phạm Xuân Tr về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, mức hình phạt tù chung thân đối với bị cáo là phù hợp, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, do vậy không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Tại lời nói sau cùng bị cáo Phạm Xuân Tr đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người bị hại không có có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

Đơn kháng cáo của bị cáo Phạm Xuân Tr trong hạn luật định, được chấp nhận để xem xét, giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.

[2] Về nội dung:

[2.1] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Phạm Xuân Tr thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình như bản án sơ thẩm quy kết, lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, phù hợp với kết quả quả nhận dạng, kết quả xác minh, sao kê tài khoản, các giấy nhận tiền có chữ ký của Phạm Xuân Tr, các “biên bản thoả thuận vào tiền cọc để đầu tư bất động sản” hoặc “biên nhận góp vốn để đầu tư bất động sản” có chữ ký của bên góp vốn, bên nhận góp vốn là Phạm Xuân Tr, kết quả giám định chữ viết, chữ ký của Tr trên các văn bản này, Biên bản họp đại hội đồng cổ đông của Công ty TTP cùng các tài liệu, chứng cứ khác được thu thập hợp pháp trong hồ sơ vụ án, có căn cứ kết luận: Trong khoảng thời gian từ năm 2019 đến tháng 07/2022, Phạm Xuân Tr là Tổng giám đốc Công ty TTP. Theo nghị quyết của Công ty TTP thì Phạm Xuân Tr không được hứa hẹn với khách hàng về việc bán hàng tại Dự án, không được nhận tiền đặt cọc, không nhận tiền đặt mua sản phẩm dự án theo dạng “suất ngoại giao”, “suất ưu tiên”… hoặc hành vi khác nhận tiền từ khách hàng để hứa hẹn bán hàng của Dự án mà không thông qua Công ty PTC. Đối với tất cả các trường hợp sản phẩm ngoại giao phải được thông qua Đại hội đồng cổ đông trước khi tổ chức thực hiện. Nhưng bị cáo Tr đã lợi dụng mình là Tổng giám đốc, nói dối những người có nhu cầu mua đất Dự án khu đô thị thương mại dịch vụ Bái Tử Long I - thành phố C là có khả năng mua đất Dự án với “suất ưu tiên”, “giá ngoại giao” với giá rẻ, để họ tưởng thật giao tiền cho Tr để Tr mua hộ đất. Với thủ đoạn này, Tr đã chiếm đoạt của 30 người bị hại gồm: Anh Trần Minh Đ số tiền 150.000.000 đồng, anh Đinh Quang H 200.000.000 đồng, anh Đỗ Xuân Tr 200.000.000 đồng, anh Phạm Bá D 3.050.000.000 đồng, anh Phạm Đức Tr2 300.000.000 đồng, anh Bùi Văn Th2 350.000.000 đồng, anh Đỗ Thế H4 700.000.000 đồng, chị Tạ Thị H1 1.500.000.000 đồng, anh Nguyễn Văn H2 600.000.000 đồng, anh Nguyễn Huy C 1.750.000.000 đồng, anh Vũ Nguyên H3 1.050.000.000 đồng (đã trả 700.000.000 đồng, còn lại 350.000.000 đồng), anh Bùi Kiên C1 350.000.000 đồng, anh Lê Trần S 1.200.000.000 đồng, anh Đỗ Xuân V 2.600.000.000 đồng, chị Phạm Thị H5 900.000.000 đồng, anh Nguyễn Xuân B2 1.200.000.000 đồng, anh Vũ Hoàng Th3 1.200.000.000 đồng, chị Nguyễn Thị Huyền Tr3 600.000.000 đồng, chị Vũ Thị Th4 1.000.000.000 đồng, ông Đoàn Văn Th5 1.350.000.000 đồng, anh Phạm Thái S1 1.200.000.000 đồng, chị Trần Thị Th5 1.300.000.000 đồng, chị Đoàn Thị Bích Th6 2.600.000.000 đồng, chị Nguyễn Thị B3 1.300.000.000 đồng, anh Đinh Văn H6 2.600.000.000 đồng, anh Vũ Văn H7 1.300.000.000 đồng, anh Hoàng Quốc D1 1.400.000.000 đồng, anh Đỗ Bá M 1.300.000.000 đồng, anh Vũ Văn H7 1.300.000.000 đồng, vợ chồng chị Trần Thị Ng - anh Đỗ Văn C2 6.400.000.000 đồng. Tổng số tiền bị cáo chiếm đoạt của các bị hại là 40.950.000.000 đồng (không kể tiền lãi, tiền phạt). Số tiền này Tr đã sử dụng một phần trả “lãi”, “phạt chậm hợp đồng” cho các bị hại là 1.455.900.000 đồng, số còn lại Tr chi tiêu cá nhân hết, không nộp bất cứ khoản tiền nào cho Công ty TTP hay công ty có thẩm quyền bán sản phẩm để mua đất cho các bị hại.

Hành vi của bị cáo Phạm Xuân Tr rất nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ và gây ảnh hưởng rất lớn đến uy tín của Công ty TTP, gây bất bình trong nhân dân. Do vậy, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Q, Tòa án nhân dân tỉnh Q truy tố, xét xử bị cáo Phạm Xuân Tr về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2.2] Xét kháng cáo xin giảm hình phạt của bị cáo Phạm Xuân Tr, Hội đồng xét xử thấy: Bị cáo chiếm đoạt của 30 bị hại với tổng số tiền 40.950.000.000 đồng, đây là số tiền đặc biệt lớn, do vậy bị cáo phạm tội thuộc tình tiết định khung “Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 500.000.000 đồng trở lên” nên Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo theo quy định tại điểm a khoản 4 điều 174 Bộ luật Hình sự là đúng quy định của pháp luật. Bị cáo có hành vi lợi dụng chức vụ quyền hạn chiếm đoạt số tiền của nhiều người, với số tiền rất lớn. Khi quyết định hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét áp dụng tình tiết tăng nặng quy định tại điểm c, g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự cũng như cho bị cáo hưởng các tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo tự thú, đã trả được một phần nhỏ số tiền cho các bị hại, từ đó xử phạt bị cáo Phạm Xuân Tr mức hình phạt tù Chung thân là phù hợp, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo đồng thời đảm bảo trừng trị giáo dục riêng bị cáo cũng như phòng ngừa tội phạm nói chung.

Tại cấp phúc thẩm, bị cáo không xuất trình thêm được tình tiết giảm nhẹ đặc biệt mới, do vậy không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo cũng như ý kiến của luật sư bào chữa cho bị cáo.

Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, cấp phúc thẩm không xét.

[3] Về án phí: Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo Phạm Xuân Tr phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

Bởi các lẽ trên, Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

QUYẾT ĐỊNH

1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Phạm Xuân Tr; giữ nguyên quyết định về hình phạt của Bản án hình sự sơ thẩm số 65/2023/HS-ST ngày 07/6/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Q đối với bị cáo Phạm Xuân Tr, như sau:

* Tuyên bố bị cáo Phạm Xuân Tr phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”;

Căn cứ điểm a khoản 4 Điều 174; điểm s, r khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm c, g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự; Xử phạt bị cáo Phạm Xuân Tr tù Chung thân, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 14/8/2022.

2. Về án phí: Bị cáo Phạm Xuân Tr phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ thời điểm hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

99
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 727/2023/HS-PT

Số hiệu:727/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về