Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 714/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI

BN ÁN 714/2022/HS-PT NGÀY 27/09/2022 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 27 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân cấp cao tại Hà Nội, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội mở phiên tòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 400/2021/TLPT-HS ngày 14 tháng 5 năm 2021 đối với bị cáo Vi Thị H, do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 06/2021/HS-ST ngày 25 tháng 3 năm 2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Yên Bái.

* Bị cáo có kháng cáo:

Vi Thị H, sinh ngày 18/3/1982, tại huyện Lục Y, tỉnh Yên Bái; nơi đăng ký nhân khẩu thường trú: thôn Loan Th, xã Tân H1, huyện Yên B, tỉnh Yên Bái; nơi tạm trú: Tổ 18, phưòng Đồng T, thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 01/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vi Văn Đ và bà Lương Thị H2; có chồng là Đỗ Xuân Ph và có 02 con, con lớn sinh năm 2001, con nhỏ sinh năm 2019; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt.

* Người bào chữa cho bị cáo Vi Thị H do Tòa án chỉ định: Lut sư Đinh Thị Kim Th1 - Công ty luật TNHH MTV Bảo Thiên, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội; có mặt.

* Người bị hại không kháng cáo được triệu tập:

1. Bà Vi Thị B1, sinh năm 1965; trú tại: thôn Làng L (thôn 6 cũ), xã Khánh H3, huyện Lục Y, tỉnh Yên Bái; vắng mặt. Bà B1 ủy quyền cho ông Hoàng Văn Nh, sinh năm 1964; trú tại: thôn Làng L, xã Khánh H3, huyện Lục Y, tỉnh Yên Bái; có mặt.

2. Ông Hoàng Văn Đ1, sinh năm 1972; trú tại: thôn Làng Ch (thôn 3 cũ), xã Khánh H3, huyện Lục Y, tỉnh Yên Bái; vắng mặt.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không kháng cáo được triệu tập:

1. Ông Hoàng Văn Nh, sinh năm 1964; có mặt.

2. Anh Hoàng Văn C, sinh năm 1987; vắng mặt. Ông C ủy quyền cho ông Hoàng Văn Nh; có mặt.

Cùng trú tại: thôn Làng L, xã Khánh H3, huyện Lục Y, tỉnh Yên Bái.

3. Anh Hoàng Văn L1, sinh năm 1990; trú tại: thôn Làng Ch, xã Khánh H3, huyện Lục Y, tỉnh Yên Bái; có mặt.

4. Chị Hoàng Thị H4, sinh năm 1995; trú tại: thôn Đồng Ch1, xã Đông C1, huyện Văn Y, tỉnh Yên Bái; vắng mặt.

* Người làm chứng:

1. Ông Đỗ Xuân Ph, sinh năm 1962; vắng mặt.

2. Chị Đỗ Thị H5, sinh năm 2001; vắng mặt.

Cùng trú tại: Tổ 18, phường Đồng T, thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái.

3. Bà Lương Thị H6, sinh năm 1958; vắng mặt.

4. Ông Vi Quốc Đ2, sinh năm 1959; có mặt.

Cùng trú tại: thôn Làng M, xã Tô M1, huyện Lục Y, tỉnh Yên Bái.

5. Chị Tô Trang Nh1, sinh năm 1992; trú tại: thị trấn Phố R, huyện Bảo Y1, tỉnh Lào Cai; có đơn xin xét xử vắng mặt.

6. Chị Hoàng Lan H7, sinh năm 1994; địa chỉ: chi nhánh ngân hàng Agribank huyện Kim Môn, tỉnh Hải Dương; vắng mặt.

7. Chị Nguyễn Hồng Th2, sinh năm 1990; trú tại: Tổ 10, phường Nguyễn Thái H8, thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái; vắng mặt.

8. Chị Nguyễn Thị Thu H9, sinh năm 1987; trú tại: tổ 34, phường Minh T1, thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong tháng 7/2013, Vi Thị H về thăm bố, mẹ đẻ thì gặp cô ruột là bà Vi Thị B1 nhà ở xã Khánh H3, huyện Lục Y, tỉnh Yên Bái. Qua trò chuyện, H biết anh Hoàng Văn C là con bà B1 đã tốt nghiệp trung cấp y nhưng chưa xin được việc nên H nói với bà B1 là H có thể xin cho anh C vào làm việc tại Phòng khám đa khoa xã Khánh H3, huyện Lục Y, chi phí hết 30.000.000 đồng. Ngày 05/8/2013, bà B1 cùng chồng là ông Hoàng Văn Nh mang 30.000.000 đồng cùng hồ sơ xin việc đưa trực tiếp cho H tại nhà trọ của H thuộc tổ 18, phường Đồng T, thành phố Yến Bái, tỉnh Yên Bái. Sau đó, H gọi điện cho bà B1 bảo số tiền xin việc quá ít nên yêu cầu bà B1 đưa thêm 30.000.000 đồng. Ngày 09/02/2014, bà B1 đưa 30.000.000 đồng cho chồng H là anh Đỗ Xuân Ph tại ngã ba xã Khánh H3 để anh Ph chuyển cho H.

Sau một thời gian thấy anh C không được đi làm bà B1 gọi điện hỏi thì H nói: Bây giờ phải thi công chức nhưng không phải nộp hồ sơ dự thi mà chỉ cần đưa thêm cho H 20.000.000 đồng. Ngày 19/11/2015, vợ chồng bà B1 lại đưa cho H 20.000.000 đồng tại nhà H. Một thời gian sau, H tiếp tục gọi điện cho bà B1 nói do anh C chưa có bằng đại học nên phài đưa thêm 9.000.000 đồng cho H để H thuê người đi học hộ. Khoảng tháng 4/2016, anh C xuống nhà H đưa cho H 5.000.000 đồng, còn 4.000.000 đồng H ứng từ tiền xây công trình vệ sinh của bố mẹ H. Hai tuần sau, bà B1 đã trả cho mẹ H là bà Lương Thị H6 ở thôn Làng Mường, xã Tô M1, huyện Lục Y, tỉnh Yên Bái số tiền này. H nói với gia đình bà B1 là H nhờ bà Hoài ở Bộ Y tế xin việc cho anh C, tiền xin việc H nhận của bà B1 đều chuyển hết cho bà Hoài. H cho gia đình bà B1 số điện thoại 0912.507.108 là số điện thoại của H nhưng nói dối là số điện thoại của bà Hoài rồi giả giọng miền trung liên lạc với gia đình bà B1 hứa hẹn sẽ xin việc cho anh C và giục gia đình bà B1 tiếp tục nộp thêm tiền thông qua H. Đến tháng 4/2017, H gọi điện cho bà B1 nói anh C đã có quyết định đi làm ở Phòng khám đa khoa xã Khánh H3 và phải nộp thêm 30.000.000 đồng, nếu không nộp sẽ hủy quyết định và không lấy lại được tiền xin việc đã đưa trước đó. Ngày 24/4/2017, bà B1 vay của ông Vi Quốc Đ2 là chú ruột của Vi Thị H 30.000.000 đồng rồi cùng ông Nh, anh C và ông Đ2 xuống nhà H, Tại nhà H, bà B1 yêu cầu H viết giấy biên nhận nhưng H không đồng ý. H nói nếu bây giờ nộp đủ tiền thì qua ngày 30/4 sang tháng 5/2017 thì anh C sẽ được đi làm. Bà B1 đã đưa cho H 30.000.000 đồng và việc trao đổi giao nhận tiền ngày 24/4/2017 đã được anh C ghi âm lại và giao cho Cơ quan điều tra. Tổng số tiền Vi Thị H nhận của gia đình bà B1 là 119.000.000 đồng.

Khong tháng 9/2013, anh Hoàng Văn C nói cho anh Hoàng Văn L1 là con ông Hoàng Văn Đ1 biết việc anh C đang nhờ H xin việc. Do đã tốt nghiệp Trường cao đẳng y tế Phú Thọ nhưng chưa xin được việc nên anh L1 đi cùng anh C xuống nhà H nhờ H xin việc giúp. H nói có thể xin cho anh L1 vào làm ở một cơ sở y tế huyện Lục Y với số tiền 125.000.000 đồng. Do tin tưởng H nên ngày 10/3/2013, bố của anh L1 là ông Hoàng Văn Đ1 đã xuống nhà H đưa cho H 125.000.000 đồng. Sau khi nhận tiền, H nói phải chờ sang năm 2014, 2015 sẽ xin được việc cho anh L1. Đến đầu năm 2017, H gọi điện yêu cầu gia đình ông Đ1 chuyển thêm tiền xin việc cho anh L1. Từ đó đến năm 2018, H nêu nhiều lý do như: Tiền thi công chức, tiền học phí liên thông lên đại học, tiền biên chế, tiền thanh tra, tiền bảo hiểm, tiền làm bằng rồi yêu cầu gia đình ông Đ1 chuyển tiền cho H bằng nhiều hình thức khác nhau, cụ thể: Từ ngày 22/02/2017 đến ngày 26/9/2018, anh L1 đã 60 lần chuyển tiền vào tài khoản Ngân hàng Agibank số 8700205115630 của H với tổng số tiền là 488.160.000 đồng.

Từ ngày 15/8/2017 đến ngày 17/8/2017, H đến Ngân hàng Agibank chi nhánh huyện Bảo Y1, tỉnh Lào Cai mượn tài khoản số 8808207000385 của giao dịch viên Tô Trang Nh1 để hướng dẫn anh L1 chuyển 04 lần vào tài khoản của chị Nh1 tổng cộng 56.000.000 đồng. Mỗi lần anh L1 chuyển tiền xong H đều nhờ chị Nh1 rút ra đưa cho H.

Ngày 02/7/2018, H đến Phòng giao dịch Ngân hàng Agibank Bảo Hà, chi nhánh huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai mượn tài khoản số 8808207000464 của giao dịch viên Hoàng Lan H7 rồi gọi điện hướng dẫn anh L1 chuyển 7.000.000 đồng vào tài khoản của chị H7 rồi nhờ chị H7 rút tiền ra đưa cho H.

Từ ngày 02/8/2018 đến ngày 10/8/2018, H đến cửa hàng Viettel store thuộc tố 02, phường Yên Ninh, thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái nhờ chị Nguyễn Hồng Th2 là nhân viên của cửa hàng cho mượn tên và số điện thoại để chuyển tiền qua dịch vụ Viettel. Sau đó, H gọi điện hướng dẫn ông Đ1 02 lần chuyển tiền vào tài khoản Viettel pay của chị Th2 tổng cộng 14.500.000 đồng. Mỗi lần ông Đ1 chuyển tiền xong, H đều nhờ chị Th2 rút tiền ra đưa cho H.

Ngày 16/7/2018, ông Đ1 đã chuyển qua dịch vụ Bưu điện cho H 13.100.000 đồng.

Ngoài ra, gia đình ông Đ1 trình bày còn đưa trực tiếp cho H, cụ thể:

+ Tại thị trấn Mậu A, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái, anh L1 đưa cho H 02 lần, tổng cộng 22.000.000 đồng (lần 1: 10.000.000 đồng, lần 2: 12.000.000 đồng);

+ Tại huyện Bảo Hà, tỉnh Lào Cai, anh L1 đưa cho H 03 lần, tổng cộng 50.000.000 đồng (lần 1: 17.000.000 đồng, lần 2: 13.000.000 đồng, lần 3: 20.000.000 đồng);

+ Tại khu vực Km4, thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái, anh L1 đưa cho H 25.000.000 đồng;

+ Tại khu vực Công viên Yên Hòa, thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái, anh L1 đưa cho H 15.000.000 đồng;

+ Tại nhà H, anh L1 đưa cho chồng H là Đỗ Xuân Ph 10.000.000 đồng để anh Ph đưa cho H;

+ Ngày 17/02/2018, ông Đ1 và anh L1 xuống nhà H đưa cho H 02 lần, với tổng số tiền là 100.000.000 đồng;

+ Ngày 19/7/2018, ông Đ1 xuống nhà H đưa cho H 50.000.000 đồng;

Tổng số tiền gia đình ông Đ1 đưa cho H để xin việc cho anh L1 là 1.112.840.000 đồng. Những lần đưa tiền trực tiếp đều không viết giấy tờ biên nhận gì.

Khong tháng 10/2014, gia đình ông Đ1 nhờ H xin việc cho con gái ông Đ1 là chị Hoàng Thị H4 đang học tại Trường cao đẳng sư phạm Yên Bái để khi ra trường được đi làm luôn. H hứa sẽ xin cho chị H4 vào làm giáo viên tại huyện Lục Y, tỉnh Yên Bái chi phí là 250.000.000 đồng. Ngày 25/10/2014, ông Đ1 đã đưa cho H 250.000.000 đồng. Sau đó, H bảo gia đình ông Đ1 nộp tiếp 30.000.000 đồng để chạy cho chị H4 học liên thông lên đại học, nộp 20.000.000 đồng để khám sức khỏe cho chị H4 và 10.000.000 đồng để lo một số giấy tờ. Sau đó, chị H4 không muốn xin việc nữa và muốn hoàn lại tiền thì H bảo phải chạy thêm tiền vì đã phá hợp đồng, ông Đ1 đã đưa cho H 03 lần tại nhà H với số tiền tổng cộng là 165.000.000 đồng. Tổng số tiền ông Đ1 đưa cho H liên quan đến xin việc cho chị H4 là 475.000.000 đồng. Các lần giao tiền cho H đều không làm giấy biên nhận. Đến nay, H vẫn chưa trả lại tiền cho gia đình ông Đ1.

H nói với gia đình ông Đ1 là nhờ bà Hoài ở Bộ Y tế xin việc cho anh L1 và nhờ người tên Lương xin việc cho chị H4. H cho gia đình ông Đ1 số điện thoại 0912.507.108 bảo là số điện thoại của Hoài và số điện thoại 0914.535.770 bảo là số điện thoại của Lương. Sau đó, H sử dụng số điện thoại 0912.507.108 xưng là Hoài, giả giọng miền trung liên lạc với gia đình ông Đ1 hứa hẹn xin được việc cho anh L1 và giục gia đình ông Đ1 tiếp tục nộp thêm tiền xin việc cho anh L1 thông qua H.

Cũng với thủ đoạn như trên, H sử dụng số điện thoại 0914.535.770 xưng là Lương liên lạc với gia đình ông Đ1 hứa hẹn xin được việc cho chị H4. Ngoài ra, H còn cho gia đình ông Đ1 số điện thoại 01688.565.455 (nay là số 0388.565.455) bảo là số của chị Yến ở xã Mưòng Lai, huyện Lục Y là người đã được H xin việc cho. Sau đó, H sử dụng số điện thoại này xưng là Yến liên lạc với gia đình ông Đ1 để tạo lòng tin.

Quá trình điều tra, Vi Thị H không thừa nhận việc H giả làm những người tên Hoài, Lương, Yến để liên lạc với gia đình ông Đ1 và gia đình bà B1. H khai không biết những người này, H chỉ sử dụng các số điện thoại 0986.873.194 và 0979.327.846, không biết các số điện thoại 0912.507.108; 0914.535.770; 0388.565.455. H chỉ nhận của gia đình ông Đ1 150.000.000 đồng để xin việc cho anh Hoàng Văn L1 và nhận 70.000.000 đồng để xin việc cho chị Hoàng Thị H4; H nhận của bà B1 90.000.000 đồng để xin việc cho anh Hoàng Văn C. Toàn bộ số tiền xin việc của hai gia đình trên H đều chuyển cho Hoài để Hoài xin việc cho anh L1, chị H4 và anh C. Sau khi không xin được việc cho ai, H đã trả cho gia đình ông Đ1 70.000.000 đồng, trả cho gia đình bà B1 90.000.000 đồng, chỉ còn nợ gia đình ông Đ1 150.000.000 đồng. Các khoản tiền gia đình ông Đ1 chuyển qua Ngân hàng, qua dịch vụ Viettel và qua Bưu điện là tiền gia đình ông Đ1 trả nợ do vay tiền của H trước đó.

Cơ quan điều tra đã trưng cầu giám định các file ghi âm do gia đình ông Đ1 và gia đình bà B1 cung cấp.

Kết luận giám định số 2148/C09-P6 ngày 16/9/2019 của Viện Khoa học hình sự Bộ Công an kết luận:

- Tiếng nói của người phụ nữ được gọi “cô”, “chị”, tự xưng “cháu” trong các file ghi âm mẫu cần giám định (ký hiệu “H” trong bản dịch nội dung) và tiêng nói của Vi Thị H trong mẫu so sánh là của cùng một người.

- Nội dung ghi âm mẫu cần giám định đã được giám định và chuyển thành văn bản.

Kèm theo Kết luận giám định là 01 bản dịch nội dung gồm 51 trang giấy A4.

Kết luận giám định số 2517/C09-P6 ngày 11/5/2020 của Viện Khoa học hình sự Bộ Công an đã kết luận: Không tìm thấy dấu hiệu cắt, ghép, chỉnh sửa nội dung trong các file gửi giám định.

- Kết quả thu giữ điện tín của Ban khai thác mạng Tổng công ty hạ tầng mạng (VNPT Net), tập đoàn công nghiệp - Viễn thông Quân đội Viettel xác định:

+ Từ ngày 01/8/2018 đến hết ngày 17/5/2019, số thuê bao 0912.507.108 và số thuê bao 0914.535.770 được sử dụng trên cùng một thiết bị điện thoại di động có mã số nhận dạng quốc tế của từng điện thoại di động (IMEI) là 357144065156780.

+ Từ ngày 04/3/2019 đến hết ngày 17/5/2019, số thuê bao 0388.565.455 được sử dụng trên các thiết bị điện thoại di động có IMEI là 357144065156780, 063754012867630, 353237079676740.

+ Từ ngày 04/4/2019 đến hết ngày 17/5/2019, số thuê bao 0979.327.846 được sử dụng trên các thiết bị điện thoại di động có IMEI là 353236079676740, 860163044745940.

+ Từ ngày 02/4/2019 đến hết ngày 17/5/2019, số thuê bao 0986.873.194 được sử dụng trên các thiết bị điện thoại di động có 1MEI là 353236079676740, 357144065156780.

Cáo trạng số 07/CT-VKS-P2 ngày 10/02/2020 của Viện kiềm sát nhân dân tỉnh Yên Bái truy tố Vi Thị H về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật Hình sự.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 06/2021/HS-ST ngày 25/3/2021, Tòa án nhân dân tỉnh Yên Bái đã quyết định: Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm n khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự: xử phạt bị cáo Vi Thị H 15 (mười lăm) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo để thi hành án.

Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự; các Điều 584, 585, 586, 589, 357 và Điều 468 Bộ luật Dân sự: Buộc bị cáo Vi Thị H phải bồi thường cho bà Vi Thị B1 119.000.000 (một trăm mười chín triệu) đồng và bồi thường cho ông Hoàng Văn Đ1 930.910.000 (chín trăm ba mươi triệu, chín trăm mười nghìn) đồng.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 06/4/2021, bị cáo Vi Thị H kháng cáo kêu oan.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bị cáo Vi Thị H thừa nhận có nhận tiền của những người bị hại nhưng cho rằng bị cáo nhận tiền để làm ăn và để xin việc nhưng số tiền không nhiều như bản án sơ thẩm quy kết, bị cáo cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo là đúng người, đúng tội nhưng quy kết bị cáo về số tiền chiếm đoạt là chưa chính xác, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét lại số tiền bị cáo đã nhận của người bị hại.

Người bào chữa cho bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét tại phiên tòa bị cáo Vi Thị H thừa nhận có nhận tiền của bà B1, ông Đ1 nhưng bị cáo đề nghị xem xét về số tiền chiếm đoạt của người bị hại không nhiều như bản án quy kết, bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, là người dân tộc thiểu số, hiểu biết pháp luật hạn chế, tại phiên tòa bị cáo thay đổi nội dung kháng cáo từ kêu oan sang xin giảm hình phạt nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viên kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội có quan điểm: Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét toàn diện các chứng cứ trong hồ sơ vụ án, lời khai của bị cáo, các file ghi âm, lời khai của người bị hại, người làm chứng, tại phiên tòa bị cáo khai số tiền nhận của người bị hại để xin việc không phải như bản án sơ thẩm quy kết mà trong đó phần lớn là tiền bị cáo làm ăn với người bị hại nhưng bị cáo không xuất trình được căn cứ chứng minh, mặt khác bị cáo chưa khắc phục số tiền chiếm đoạt của các bị hại, bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ nào mới, do vậy, không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Tại lời nói sau cùng, bị cáo Vi Thị H đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Yên Bái, Viện kiêm sát nhân dân tỉnh Yên Bái, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Kháng cáo của bị cáo Vi Thị H trong hạn luật định, đủ điều kiện xem xét giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.

[2] Về nội dung:

[2.1] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Vi Thị H thay đổi nội dung kháng cáo từ kêu oan sang xin giảm hình phạt, bị cáo thừa nhận có nhận tiền của người bị hại để xin việc như bản án sơ thẩm nêu nhưng đề nghị Hội đồng xét xử xem xét lại số tiền bị cáo chiếm đoạt. L1 khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án như: các file ghi âm, các video ghi hình do anh anh C ghi lại và giao nộp cho cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người làm chứng; có cơ sở kết luận: Bị cáo Vi Thị H là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, mặc dù không có chức năng, nhiệm vụ tuyển dụng nhưng bị cáo H đã dùng thủ đoạn gian dối nhận tiền của các bị hại để xin việc sau đó chiếm đoạt tiền của 02 người bị hại, tổng số tiền 1.049.910.000 đồng (chiếm đoạt của bà Vi Thị B1 số tiền 119.000.000 đồng, của ông Hoàng Văn Đ1 số tiền 930.910.000 đồng) đến nay bị cáo chưa trả cho người bị hại.

Do có hành vi nêu trên, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Yên Bái, Tòa án nhân dân tỉnh Yên Bái truy tố, xét xử bị cáo Vi Thị H về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” them điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không oan.

Hành vi phạm tội của bị cáo là đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trái phép quyền sở hữu về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ. Bị cáo phạm tội rất nhiều lần, diễn ra trong một thời gian dài, với thủ đoạn khá tinh vi nên cần phải có mức hình phạt tương xứng để cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa chung. Khi quyết định hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét bị cáo phạm tội là phụ nữ có thai, là người dân tộc thiểu số, trình độ văn hóa rất thấp, chưa có tiền án, tiền sự, xử phạt bị cáo mức án 15 năm tù là phù hợp, tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo đã nhận thức được hành vi phạm tội của mình, thay đổi nội dung kháng cáo từ kêu oan sang xin giảm hình phạt, bị cáo thành khẩn khai nhận, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội nên Hội đồng xét xử áp dụng thêm điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự cho bị cáo. Xét thấy có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo và đề nghị của luật sư, Hội đồng xét xử giảm một phần hình phạt để thể hiện sự khoan hồng của pháp luật đối với bị cáo.

3. Về án phí: Do kháng cáo được chấp nhận nên bị cáo Vi Thị H không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, Căn cứ Điều điểm b khoản 1 Điều 355; Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

QUYẾT ĐỊNH

1. Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Vi Thị H, sửa quyết định của Bản án hình sự sơ thẩm số 06/2021/HS-ST ngày 25/3/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Yên Bái, cụ thể:

Tuyên bố bị cáo Vi Thị H phạm tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản".

Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm n khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Vi Thị H 14 (mười bốn) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo để thi hành án.

Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự; các Điều 584, 585, 586, 589, 357 và Điều 468 Bộ luật Dân sự: Buộc bị cáo Vi Thị H phải bồi thường cho bà Vi Thị B1 119.000.000 (một trăm mười chín triệu) đồng và bồi thường cho ông Hoàng Văn Đ1 930.910.000 (chín trăm ba mươi triệu, chín trăm mười nghìn) đồng.

2. Về án phí: Bị cáo Vi Thị H không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

159
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 714/2022/HS-PT

Số hiệu:714/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về