Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 69/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUẾ VÕ, TỈNH BẮC NINH

 BẢN ÁN 69/2023/HS-ST NGÀY 17/03/2023 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 17 tháng 3 năm 2023, tại trụ sở, Tòa án nhân dân huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh xét xử công khai trực tuyến tại điểm cầu Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Ninh và Toà án nhân dân huyện Quế Võ, vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 59/2023/TLST-HS ngày 17/02/2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 71/2023/QĐXXST-HS ngày 07/3/2023 đối với bị cáo:

Phạm Văn Kh, sinh năm 1996;

HKTT: Thôn L, xã P, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh; Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; Giới tính: Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Bố đẻ: Phạm Văn K và mẹ đẻ: Trần Thị T; gia đình có 02 anh em, bị cáo là con thứ nhất; vợ, con: Không; tiền án, tiền sự, nhân thân: Không; bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 09/12/2022 đến nay tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Ninh, có mặt tại phiên toà.

- Người bị hại: Chị Bùi Thị L, sinh năm 1998; Địa chỉ: Xóm Thang, xã Quý Hoà, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hoà Bình – vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Nguyễn Văn L, sinh năm 1980; Địa chỉ: Thôn L, xã L, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh – Vắng mặt;

2. Bà Trần Thị T, sinh năm 1976; Thôn L, xã P, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh – Có mặt;

3. Anh Nguyễn Xuân D, sinh năm 1993; Địa chỉ: Thôn L, xã L, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh – Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Phạm Văn Kh có mối quan hệ quen biết với chị Bùi Thị L (chị L đang mang thai). Do không có tiền tiều sài cá nhân, nên Kh nảy sinh ý định mượn xe mô tô của chị L để mang đi cầm cố lấy tiền ăn tiêu. Khoảng 9 giờ ngày 07/12/2022, Kh đã nhắn tin cho chị L qua ứng dụng Zalo hỏi mượn xe để đi đến thị trấn Phố Mới có việc hẹn 10 giờ cùng ngày sẽ trả lại xe, tin tưởng Kh nên chị L đã đồng ý cho mượn xe mô tô nhãn hiệu HONDA LEAD màu trắng, BKS 28N1-xxxxx. Sau đó, Kh đến phòng trọ của chị L ở thôn Mao Dộc, xã Phượng Mao, huyện Quế Võ để lấy xe, rồi đi thẳng cửa hàng sửa chữa xe máy, xe đạp điện L Minh ở thôn L, xã L.

Tại đây Kh gặp anh Nguyễn Văn L, sinh năm 1980 là chủ của hàng và nói dối là xe mô tô của mình đang cần tiền để lại làm tin hỏi vay anh L 27.000.000 đồng. Anh L đồng ý và cho Kh vay 27.000.000 đồng. Số tiền trên Kh đã tiêu sài cá nhân hết.

Đến hạn không thấy Kh trả xe mô tô, ngày 09/12/2022, chị Bùi Thị L, đến Công an huyện Quế Võ trình báo. Ngay sau khi tiếp nhận đơn trình báo của người bị hại, Cơ quan điều tra Công an huyện Quế Võ tiến hành triệu tập Phạm Văn Kh làm việc. Tại Cơ quan điều tra Phạm Văn Kh đã đầu thú khai nhận hành vi lừa đảo chiếm đoạt xe mô tô của chị L như trên.

Ngày 09/12/2022, khi biết chiếc xe mô tô giữ lại làm tin của Kh ngày 07/12/2022 là tài sản do phạm tội mà có, anh Nguyễn Văn L đã tự nguyện giao nộp Cơ quan điều tra xe mô tô nhãn hiệu HONDA LEAD màu trắng, BKS 28N1-xxxxx để giải quyết theo quy định. Ngày 30/01/2023, cơ quan CSĐT Công an huyện Quế Võ đã trả lại cho chị L. Chị L đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu đề nghị gì về trách nhiệm dân sự. Đối với số tiền 27.000.000 đồng Kh vay của anh L, ngày 10/12/2022, bà Trần Thị T (mẹ ruột của Kh) đã trả lại cho anh L. Anh L đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu đề nghị gì về trách nhiệm dân sự. Bà Tư không yêu cầu Kh trả lại số tiền trên.

Đối với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu VIVO, màu xanh Kh dùng để liên lạc với chị L khi mượn xe mô tô, Kh khai nhận đã bán chiếc điện thoại trên tại cửa hàng M ở thôn L, xã L của anh Nguyễn Xuân D, sinh năm 1993. Quá trình điều tra xác định, anh D đã bán lại chiếc điện thoại trên cho một người thanh niên không quen biết.

Tại Kết luận định giá tài sản số 88/KL-HĐĐGTS ngày 09/12/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Quế Võ kết luận: “01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA LEAD, BKS 28N1-xxxxx có giá 31.300.000 đồng”.

Bản cáo trạng số: 22/CT-VKS ngày 17/02/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh đã truy tố bị cáo Phạm Văn Kh phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Phạm Văn Kh khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như bản cáo trạng đã nêu và thừa nhận, cáo trạng của VKSND huyện Quế Võ đã truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Võ thực hành quyền công tố tại phiên toà trình bày luận tội, sau khi phân tích đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, cũng như qua xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo Kh đã đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố: Bị cáo Phạm Văn Kh phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Áp dụng khoản 1 Điều 174, điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điểm i khoản 1 Điều 52, Điều 38 BLHS xử phạt bị cáo Phạm Văn Kh từ 12 tháng tháng đến 15 tháng tù. Miễn hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo. Ngoài ra, đại diện VKS còn đề nghị về án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Bị cáo nhận tội, không tranh luận với đại diện Viện kiểm sát mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để sớm trở về gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Các quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan điều tra, điều tra viên, cán bộ điều tra, viện kiểm sát, kiểm sát viên đều đảm bảo đúng quy định của pháp luật, không bị khiếu nại nên xác định hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng và cơ quan tiến hành tố tụng là hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra phù hợp với lời khai của người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, tang vật thu giữ được và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, thể hiện: Vào khoảng 09 giờ 10 phút ngày 07/12/2022 tại thôn Mao Dộc, xã Phượng Mao, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh, bị cáo Phạm Văn Kh đã có hành vi gian dối nhằm chiếm đoạt tài sản là 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA LEAD, màu trắng, BKS 28N1-xxxxx trị giá 31.300.000 đồng của chị Bùi Thị L. Hành vi của bị cáo Kh đã phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 174 BLHS như cáo trạng của VKSND huyện Quế Võ đã truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng đến trật tự trị an tại địa phương. Do vậy, cần phải xử phạt bị cáo thật nghiêm khác cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian để trừng trị và giáo dục, cải tạo bị cáo thành người có ích cho xã hội và cũng để giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[4] Xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo thì thấy: Bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là phạm tội với phụ nữ có thai được quy định điểm i khoản 1 Điều 52 BLHS. Tuy nhiên, quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn, hối hận về hành của mình; bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; sau khi phạm tội đã đầu thú và tác động đến gia đình bồi thường cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; có bà nội là người có công với cách mạng và người bị hại cũng xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS. Do vậy, khi lượng hình cũng cần xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt để thể hiện tính Kh hồng của pháp luật.

Do bị cáo làm nghề tự do, không có nghề nghiệp nên HĐXX miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Chị Bùi Thị L đã nhận lại 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA LEAD, màu trắng, BKS 28N1-xxxxx, không có yêu cầu bồi thường gì. Bà Trần Thị T đã tự nguyện trả cho anh Nguyễn Văn L số tiền 27.000.000 đồng mà bị cáo vay và không yêu cầu bị cáo trả lại tiền nên về trách nhiệm dân sự không đặt ra xem xét, giải quyết.

[6] Liên quan trong vụ án còn có: Anh Nguyễn Văn L cho bị cáo vay tiền và nhận chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA LEAD, màu trắng, BKS 28N1-xxxxx để làm tin. Do anh L không biết chiếc xe trên là do Kh phạm tội mà có nên không đặt ra xem xét, giải quyết. Đối với anh Nguyễn Xuân D là người đã mua lại chiếc điện thoại Vivo của Kh dùng để nhắn tin lừa đảo chị L. Anh D không biết việc làm của Kh và đã bán chiếc điện thoại trên cho người không quen biết nên không xem xét, xử lý đối với anh L và anh D là có căn cứ.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Phạm Văn Kh phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

2. Áp dụng khoản 1 Điều 174, điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm i khoản 1 Điều 52; Điều 38 BLHS; Điều 136, Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án, xử phạt:

- Bị cáo Phạm Văn Kh 12 (Mười hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 09/12/2022. Quyết định tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm để đảm bảo thi hành án.

3. Về trách nhiệm dân sự: Không đặt ra giải quyết.

4. Về án phí: Bị cáo Phạm Văn Kh phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

5. Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

106
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 69/2023/HS-ST

Số hiệu:69/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quế Võ - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/03/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về