Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 51/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN N, THÀNH PHỐ CẦN THƠ

BẢN ÁN 51/2023/HS-ST NGÀY 24/03/2023 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 24 tháng 3 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận N xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 37/2023/TLST-HS ngày 06 tháng 02 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 130/2023/QĐXXST-HS, ngày 02 tháng 3 năm 2023, đối với bị cáo:

- Họ và tên: PHẠM HOÀNG D; Sinh năm: 1986; Giới tính: Nam; Tên gọi khác: Không có; Nơi sinh: Cần Thơ; Nơi cư trú: 37T3, khu vực 3, phường A, quận N, thành phố Cần Thơ; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Môi giới bất động sản; Trình độ học vấn: 12/12; Cha: Phạm Hoàng D2, Sinh năm: 1957; Mẹ: Lê Thị Kim O, Sinh năm: 1965; Bị cáo có 01 người em ruột sinh năm 1995; Bị cáo chưa có vợ, con; Tiền sự; Tiền án: Chưa;

Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 13/8/2022, đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ - Công an quận N, thành phố Cần Thơ. (Bị cáo có mặt tại phiên tòa)

- Bị hại: Ông Đặng Hoàng T, Sinh năm: 1976; (Xin xét xử vắng mặt) Địa chỉ: Số 77, Hùng Vương, phường Thới Bình, quận N, thành phố Cần Thơ;

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1/. Bà Võ Việt H, Sinh năm: 1986; (Xin xét xử vắng mặt) Địa chỉ: Số 160/24D, Tầm Vu, phường H, quận N, thành phố Cần Thơ.

Địa chỉ liên hệ: 121, Nguyễn Tri Phương, phường A, quận N, thành phố Cần Thơ.

2/. Bà Trần Dung H, Sinh năm: 1986; (Vắng mặt) Địa chỉ: Số 160/20C, Tầm Vu, phường H, quận N, thành phố Cần Thơ.

3/. Ông Lê Huỳnh Hoàng Ph, Sinh năm: 1979; (Vắng mặt) Địa chỉ: A104, khu vực Thạnh Thới, phường Phú Thứ, quận Cái Răng, thành phố Cần Thơ.

4/. Ông Huỳnh Công D1, Sinh năm: 1993; (Vắng mặt) Địa chỉ: 324A2/2, khu vực 5, phường A, quận N, TP. Cần Thơ.

5/. Ông Phạm Hoàng D2, Sinh năm: 1957; (Có mặt) Địa chỉ: 37T3, khu vực 3, phường A, quận N, TP. Cần Thơ.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 11/8/2022, ông Đặng Hoàng T đến Công an phường H tố giác Phạm Hoàng D có hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của ông T số tiền 150.000.000 đồng, xảy ra vào ngày 20/7/2022 và ngày 26/7/2022 tại quận N, thông qua hình thức đưa ra thông tin gian dối không có thật về việc nói dối mình là chủ sở hữu thửa đất số 73 và 100 tờ bản đồ số 50 cùng nhà ở, toạ lạc tại số 160/24B, Tầm Vu, phường H, quận N và đứng ra bán thửa đất và nhà trên cho ông T giá 3.700.000.000 đồng, để nhận số tiền đặt cọc mua đất của ông T. Sau khi nhận 150.000.000 đồng tiền cọc của ông T thì Phạm Hoàng D tiêu xài cá nhân và trả nợ hết, không có sự việc bán đất cho ông T như Hoàng D đã thoả thuận, sau nhiều lần đòi lại số tiền trên thì Hoàng D không trả và thừa nhận đã lừa dối ông T để chiếm đoạt số tiền cọc trên, nên ông T tố giác hành vi của D đến Công an phường H nơi có tài sản là nhà đất giao dịch.

Vật chứng, tài liệu thu giữ:

- 01 (một) Hợp đồng đặt cọc, bên A. Võ Việt H, sinh năm 1986, bên A có ký tên ghi Phạm Hoàng D, nhận cọc thay vợ Võ Việt H, bên B: Đặng Hoàng T có ký tên ghi họ tên Đặng Hoàng T, số tiền đặt cọc là 100.000.000 đồng (Một trăm triệu đồng), gồm 01 tờ giấy A4 (bản gốc) đề ngày 20/7/2022 (mặt trước), mặt sau tờ giấy A4 có ghi ngày 26/7 em Phạm Hoàng D có nhận thêm 50.000.000 đồng (Năm mươi triệu đồng), có ký tên Phạm Hoàng D.

- 01 (một) Tờ giấy tập ghi tên Phạm Hoàng D cam kết sẽ trả lại cho anh/chị Đặng Hoàng T và chị Kim Châu số tiền đặt cọc 150.000.000 đồng lập ngày 06/8/2022, có chữ ký ghi Phạm Hoàng D, - 01 (một) Căn cước công dân số: 09028xxxx468 họ tên Phạm Hoàng D, loại thẻ nhựa;

- 01 (một) Tờ cam kết viết trên giấy tập tên Phạm Hoàng D cam kết sẽ hoàn trả lại tiền cọc là 150.000.000 đồng đề ngày 09/8/2022, có chữ ký ghi Phạm Hoàng D;

- 02 (hai) Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất có đóng dấu mộc đỏ của ngân hàng, số giấy BB580315 và số CR 661188 (bản phô tô).

Theo Bản kết luận giám định số: 118/KL-KTHS-TL ngày 25/11/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Cần Thơ kết luận về đối tượng giám định:

- Không đủ cơ sở để kết luận chữ ký mang tên Phạm Hoàng D trên tài liệu cần giám định ký hiệu A so với chữ ký của Phạm Hoàng D trên các tài liệu mẫu ký hiệu từ M1 đến M5 có phải cùng một người ký ra hay không.

- Chữ viết trên tài liệu từ giám định ký hiệu A so với chữ viết của Phạm Hoàng D trên các tài liệu mẫu ký hiệu từ M1 đến M5 do cùng một người viết ra (búc lụt 25, 26).

Tại cơ quan điều tra Phạm Hoàng D khai nhận: D không có nghề nghiệp ổn định và sinh sống bằng nhiều nghề trong đó có nghề môi giới nhà đất. Quá trình làm môi giới thì Hoàng D có quen biết Huỳnh Công D1 cũng là môi giới và nhiều người khác làm môi giới như Công D. Khoảng cuối tháng 5/2022 đầu tháng 6/2022, bà Võ Việt H là bạn học trước đây của Hoàng D có tâm sự muốn bán thửa đất số 73 và 100 tờ bản đồ số 50, toạ lạc tại 160/24D Tầm Vu, phường H, quận N với giá chào bán là 4.000.000.000 đồng. Hoàng D đồng ý nên yêu cầu Hà cung cấp cho mình giấy đất bản phô tô và chìa khoá nhà. Khi nhận được giấy chứng nhận phô tô và chìa khóa nhà từ bà H thì Hoàng D gửi nhiều người chào bán trong đó có Huỳnh Công D1, đến ngày 16/7/2022 thì có ông Đặng Hoàng T có nhu cầu mua nên Công D dẫn ông T đi xem nhà thì do Hoàng D trực tiếp mở cửa, ngày 17/7/2022 ông T cùng bà C tiếp tục xem nhà thêm lần nữa, lần này vẫn do Hoàng D mở cửa, sau đó ông T xin số điện thoại và Zalo liên hệ với Hoàng D, ông T trực tiếp trả giá với Hoàng D giá mua nhà và đất trên là 3.700.000.000 đồng thì Hoàng D đồng ý bán cho ông T và bà C, nên hẹn ông T và bà C cùng Công D ngày 20/7/2022 đến quán Cà phê Mộc trên đường Mậu Thân, quận N, để đặt cọc. Tại đây Hoàng D đã nhận 100.000.000 đồng tiền mặt từ ông T, việc nhận tiền cọc được Huỳnh Công D1 chứng kiến và ghi lại bằng hợp đồng đặt cọc viết tay đề ngày 20/7/2022, khi nhận tiền thì Hoàng D ký tên vào bên A (bên bán) và ghi nhận cọc thay vợ Võ Việt H 100.000.000 đồng chẵn, ký tên ghi tên Phạm Hoàng D, còn ông T thì ký tên vào bên B (bên mua). Khi ông T và bà C hỏi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì Hoàng D nói hiện đang nộp ở UBND quận N để làm thủ tục nhập 02 thửa thành 01 thửa, chỉ có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất phô tô có dấu đỏ ngân hàng, cùng chứng minh nhân dân tên Võ Việt H (bản phô tô), hẹn đúng ngày 27/7/2022 sẽ có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bản gốc đã nhập 02 thửa thành 01 thửa giao cho ông T để hỗ trợ ông T vay ngân hàng. Sau khi nhận xong 100.000.000 đồng của ông T thì Hoàng D đem trả nợ nhiều người và tiêu xài cá nhân hết. Đến ngày 26/7/2022, Hoàng D lấy lý do là cần tiền để đóng thuế lấy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mới ra, nên yêu cầu ông T đưa thêm 50.000.000 đồng tiền cọc, ông T đồng ý nên Hoàng D đến nhà ông T ở hẻm 11, đường Mậu Thân, phường Xuân Khánh, quận N nhận thêm 50.000.000 đồng tiền mặt và ghi vào phía sau hợp đồng đặt cọc là nhận tổng cộng 150.000.000 đồng tiền cọc. Sau khi nhận 150.000.000 đồng tiền cọc của Tâm thì Phạm Hoàng D tiêu xài cá nhân và trả nợ hết, không có sự việc bán đất cho ông T như D đã thoả thuận, sau nhiều lần đòi lại số tiền trên thì Hoàng D không trả và thừa nhận đã lừa dối ông T để chiếm đoạt số tiền trên nên ông T tố giác hành vi của D đến Công an phường H nơi có tài sản là nhà đất giao dịch.

Đối với bà Võ Việt H xác định chỉ có mối quan hệ bạn bè học cùng thời Trung học cơ sở với Phạm Hoàng D, khoảng tháng 5/2022 khi gặp lại D thì biết D làm nghề môi giới nhà đất. Do có nhu cầu bán thửa đất số 73 và 100, tờ bản đồ số 50 cùng nhà ở, toạ lạc tại số 160/24B, Tầm Vu, phường H, quận N với giá là 4.000.000.000 đồng, tiền hoa hồng 01% (tương đương 40.000.000 đồng), Hoàng D đồng ý nên bà H đưa cho Hoàng D chìa khóa cửa nhà và 02 (hai) giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất, số giấy BB580315 và số CR 661188 (bản phô tô có đóng dấu mộc đỏ của Ngân hàng TMCP Việt Nam Thương Tín, Chi nhánh Cần Thơ, PGD An Hòa). Bà H không có ủy quyền miệng hay bằng văn bản gì đối với thửa đất nêu trên cho Hoàng D. Bà H khẳng định hoàn toàn không biết việc Hoàng D nói với ông Huỳnh Công D1 và ông Đặng Hoàng T là chồng của bà H, dẫn ông T đi xem nhà để bán thửa đất số 73 và 100, tờ bản đồ số 50 cùng nhà ở tại địa chỉ 160/24B, Tầm Vu, phường H, quận N với giá là 3.700.000.000 đồng và thay bà H nhận số tiền đặt cọc từ ông Đặng Hoàng T 150.000.000 đồng vào ngày 20/7/2022 và ngày 26/7/2022, cho đến khi được Cơ quan điều tra mời làm việc và thông báo thì bà mới biết sự việc.

Đối với Huỳnh Công D1 không biết sự việc bị cáo Hoàng D đưa ra thông tin gian dối về việc làm chủ nhà và đất tại thửa đất trên để chiếm đoạt tiền của ông Đặng Hoàng T, Công D không có hưởng lợi gì từ số tiền bị cáo Hoàng D chiếm đoạt được và tiền môi giới bán nhà đất. Do đó không có căn cứ xử lý Công D với vai trò đồng phạm với Hoàng D.

Đối với bà Trần Dung H, khi nhận số tiền 11.000.000 đồng do bị cáo Phạm Hoàng D chuyển trả vào ngày 07/07/2022, là số tiền bị cáo mượn bà Hạnh trước đó, bà Hạnh không biết số tiền bị cáo D trả là do phạm tội mà có. Bà Hạnh đã giao nộp lại số tiền trên phục vụ điều tra làm rõ. Do gia đình bị cáo D đã khắc phục hậu quả cho bị hại nên Cơ quan điều tra đã ra Quyết định xử lý vật chứng trao trả cho bà Trần Dung H (bút lục 120-121);

Đối với ông Lê Huỳnh Hoàng Ph, nhận số tiền 50.000.000 đồng do bị cáo D chuyển trả vào ngày 26/7/2022 và ngày 29/7/2022 là số tiền bị cáo D mượn ông Phúc từ trước, ông Phúc không biết số tiền trên là do bị cáo D phạm tội mà có nên Cơ quan điều tra không xử lý.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Đặng Hoàng T đã nhận lại đủ số tiền khắc phục hậu quả, không có yêu cầu gì thêm, nên không đề cập giải quyết đối với yêu cầu về mặt dân sự. Đối với ông Phạm Hoàng D2 là cha ruột bị cáo D đã thay bị cáo bồi thường cho bị hại số tiền 150.000.000 đồng, ông Do không yêu cầu bị cáo trả lại nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý.

Tại bản Cáo trạng số: 56/CT-VKS ngày 02 tháng 02 năm 2023, Viện kiểm sát nhân dân quận N, thành phố Cần Thơ truy tố Phạm Hoàng D về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo Điểm c Khoản 2 Điều 174 Bộ luật Hình sự .

Tại phiên tòa, Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như Cáo trạng đã truy tố, ăn năn hối cải, xin giảm nhẹ hình phạt.

Bị hại ông Đặng Hoàng T có đơn xin xét xử vắng mặt, cho rằng đã có lời khai trong quá trình điều tra, không yêu cầu gì thêm và xin giảm nhẹ cho bị cáo.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Võ Việt H có đơn xin xét xử vắng mặt, giữ nguyên lời khai trong quá trình điều tra, không yêu cầu gì thêm.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Phạm Hoàng D2 là cha ruột bị cáo trình bày sau khi biết sự việc bị cáo phạm tội ông đã vay tiền bồi thường cho bị hại 150.000.000 đồng xong, hiện nay không có yêu cầu gì, mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ cho bị cáo.

Kiểm sát viên giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên Cáo trạng, không bổ sung gì thêm, đồng thời phân tích tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và đề nghị:

Về trách nhiệm hình sự: Áp dụng Điểm c Khoản 2 Điều 174 Bộ luật Hình sự; Điểm b, s Khoản 1, 2 Điều 51; Điểm g Khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự;

Xử phạt bị cáo Phạm Hoàng D từ 03 năm 06 tháng đến 04 năm tù.

Về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng: Công nhận bị cáo Phạm Hoàng D và gia đình đã bồi thường xong cho bị hại Đặng Hoàng T số tiền 150.000.000 đồng;

- Công nhận Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận N, thành phố Cần Thơ đã giao trả cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Trần Dung H 11.000.000 đồng;

-Trả lại bị cáo Phạm Hoàng D 01 Căn cước công dân số 09020860xxx68 tên Phạm Hoàng D, loại thẻ nhựa.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát trong quá trình điều tra và truy tố đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, bị cáo và các người tham gia tụng tố tụng không ai khiếu nại gì về thủ tục tố tụng.

[2]. Xét thấy trong quá trình điều tra và tại phiên tòa có đủ cơ sở xác định bị cáo Phạm Hoàng D làm nghề môi giới bất động sản. Khoảng cuối tháng 5/2022 đầu tháng 6/2022, bà Võ Việt H là bạn học trước đây của bị cáo D có tâm sự muốn bán thửa đất số 73 và 100, tờ bản đồ số 50, gắn liền với nhà ở, toạ lạc tại 160/24D Tầm Vu, phường H, quận N với giá chào bán là 4.000.000.000 đồng. Hoàng D đồng ý nên yêu cầu bà H cung cấp giấy đất bản phô tô và chìa khoá nhà. Khi nhận được giấy chứng nhận phô tô và chìa khóa nhà từ bà H thì Hoàng D gửi nhiều người chào bán, đến ngày 16/7/2022 thì có ông Đặng Hoàng T có nhu cầu mua nên Công D dẫn ông T đi xem nhà thì do Hoàng D trực tiếp mở cửa, ngày 17/7/2022 ông T cùng bà C tiếp tục xem nhà thêm lần nữa, lần này vẫn do Hoàng D mở cửa, sau đó ông T xin số điện thoại và Zalo liên hệ với Hoàng D, ông T trực tiếp trả giá với Hoàng D giá mua nhà và đất trên là 3.700.000.000 đồng thì Hoàng D đồng ý bán cho ông T và bà C, nên hẹn ông T và bà C cùng Công D ngày 20/7/2022 đến quán Cà phê Mộc trên đường Mậu Thân, quận N, để đặt cọc. Tại đây mặc dù chưa trao đổi, chưa được bà H ủy quyền bằng văn bản cũng như bằng miệng, nhưng Hoàng D đã nói dối với ông T rằng bà H là vợ D và D đã nhận 100.000.000 đồng tiền mặt từ ông T, việc nhận tiền cọc được Huỳnh Công D1 chứng kiến và ghi lại bằng hợp đồng đặt cọc viết tay đề ngày 20/7/2022, khi nhận tiền thì Hoàng D ký tên vào bên A (bên bán) và ghi nhận cọc thay vợ Võ Việt H 100.000.000 đồng chẵn, ký tên ghi tên Phạm Hoàng D, còn ông T thì ký tên vào bên B (bên mua). Khi ông T và bà C hỏi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì Hoàng D nói dối hiện đang nộp ở UBND quận N để làm thủ tục nhập 02 thửa thành 01 thửa, chỉ có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất phôtô có dấu đỏ ngân hàng, cùng chứng minh nhân dân tên Võ Việt H (bản phô tô), hẹn đúng ngày 27/7/2022 sẽ có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bản gốc đã nhập 02 thửa thành 01 thửa giao cho ông T để hỗ trợ ông T vay ngân hàng. Sau khi nhận xong 100.000.000 đồng của ông T thì Hoàng D đem trả nợ nhiều người và tiêu xài cá nhân hết. Đến ngày 26/7/2022, Hoàng D tiếp tục nói dối là cần tiền để đóng thuế lấy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mới ra, nên yêu cầu ông T đưa thêm 50.000.000 đồng tiền cọc, ông T đồng ý nên Hoàng D đến nhà ông T nhận thêm 50.000.000 đồng tiền mặt và ghi vào phía sau hợp đồng đặt cọc là nhận tổng cộng 150.000.000 đồng tiền cọc. Sau khi nhận 150.000.000 đồng tiền cọc của ông T thì Phạm Hoàng D tiêu xài cá nhân và trả nợ hết, không có sự việc bán đất cho ông T như D đã thoả thuận, sau nhiều lần đòi lại số tiền trên thì Hoàng D không trả và thừa nhận đã lừa dối ông T để chiếm đoạt số tiền trên nên ông T tố giác hành vi của D đến cơ quan Công an.

Xét thấy, lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, văn bản nhận tiền cọc, tờ cam kết trả nợ và các chứng cứ khác có trong hồ sơ, đã đủ cơ sở xác định bị cáo đã dùng thủ đoạn gian dối đưa ra thông tin không có thật, để ông T tin tưởng đặt cọc mua nhà, đất để chiếm đoạt tiền của ông T với tổng số tiền là 150.000.000 đồng, nên đã đủ yếu tố cấu thành tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại Điểm c Khoản 2 Điều 174 của Bộ luật Hình sự.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, làm ảnh hưởng tình hình an ninh trật tự ở địa phương. Bị cáo tuy có khả năng lao động, có học thức nhất định, cũng có nghề nghiệp môi giới mua bán bất động sản, nhưng đã lợi dụng việc được chủ sở hữu nhờ rao bán tài sản, bị cáo đã dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản của người khác để thỏa mãn cho nhu cầu tiêu xài cá nhân. Bị cáo D phạm tội thuộc trường hợp tăng nặng phạm tội từ 02 lần trở lên theo quy định tại Điểm g Khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Do đó, cần thiết phải có hình phạt tương xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, phải cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian tương đối, để giáo dục riêng và phòng ngừa chung trong xã hội.

Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt cũng cần xem xét giảm nhẹ cho bị cáo phần nào như thật thà khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo cùng với gia đình đã khắc phục bồi thường xong cho bị hại và bị hại có đơn xin giảm nhẹ cho bị cáo. Bị cáo có cha ruột là người có công với cách mạng được tặng thưởng nhiều Huân chương chiến sĩ vẻ vang. Do đó bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ theo Điểm b, s Khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Nên cần xem xét áp dụng giảm nhẹ cho bị cáo khi quyết định hình phạt.

Đối với bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa mặc dù đã được tống đạt hợp lệ, xét thấy việc vắng mặt không ảnh hưởng đến việc xét xử bị cáo, nên Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử theo thủ tục chung.

[3]. Về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng: Như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.

[4]. Về án phí hình sự: Bị cáo phải nộp theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Điểm c Khoản 2 Điều 174; Điểm b, s Khoản 1, 2 Điều 51; Điều 47; Điểm g Khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự.

- Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên bố : Phạm Hoàng D phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”

Xử phạt: Phạm Hoàng D 03 (Ba) năm 06 (Sáu) tháng tù Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam 13/8/2022.

Về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng:

- Công nhận bị cáo Phạm Hoàng D đã bồi thường xong cho bị hại Đặng Hoàng T số tiền 150.000.000 đồng (Một trăm năm mươi triệu đồng);

- Công nhận Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận N, thành phố Cần Thơ đã giao trả cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Trần Dung H 11.000.000 đồng (Mười một triệu đồng);

- Trả lại bị cáo Phạm Hoàng D 01 Căn cước công dân số 09020860xxx68 tên Phạm Hoàng D, loại thẻ nhựa.

Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Phạm Hoàng D phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm tại Chi cục Thi hành án dân sự quận N, thành phố Cần Thơ.

Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo. Đối với bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại địa phương nơi cư trú.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự được quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

12
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 51/2023/HS-ST

Số hiệu:51/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Ninh Kiều - Cần Thơ
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/03/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về