Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 51/2022/HSPT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH ĐỊNH

BẢN ÁN 51/2022/HSPT NGÀY 29/03/2022 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 29 tháng 03 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 01/2022/TLPT-HS ngày 05 tháng 01 năm 2022 đối với bị cáo Lê Thị H do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số: 03/2021/HS-ST ngày 22 tháng 11 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện VC, tỉnh Bình Định.

- Bị cáo có kháng cáo:

LÊ THỊ H, sinh năm 1980 tại VC, Bình Định; nơi cư trú: Khu phố HG, thị trấn VC, huyện VC, tỉnh Bình Định; nghề nghiệp: Nông; trình độ văn hóa: 06/12; dân tộc: Chăm; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn D (chết) và bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1964; có 02 ngư i con, lớn nhất sinh năm 199 , nh nhất sinh năm 2000; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi kh i nơi cư trú. Có mặt.

* Người bào chữa cho bị cáo Lê Thị H: Bà Lê Tôn Nữ Kim Yến - Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Bình Định. “Có mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lê Thị H không có tài sản là đất và rừng keo, nhưng đã 02 lần thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của các bị hại. Cụ thể:

Vào đầu tháng 8/2020, bị cáo Lê Thị H tự giới thiệu và dẫn anh Võ Hoàng L trực tiếp đi xem khoảnh rừng diện tích khoảng 01 ha, đang trồng cây keo 4 năm tuổi tại khu vực Suối Bà Cay thuộc làng SĐ, xã CH, huyện VC để bán số keo này cho anh L. Đến ngày 13/8/2020, tại nhà của mình ở khu phố HG, thị trấn VC, huyện VC, tỉnh Bình Định, H đã lập 01 hợp đồng bán số cây keo này cho anh L và nhận của anh L số tiền 30.000.000 đồng. Sau đó, anh L phát hiện số cây keo mà bị cáo bán cho anh không phải của bị cáo mà của ông Trần Trọng S trồng trên diện tích đất thuê của chị Lê Thị L1, anh L đã nhiều lần liên hệ với bị cáo để lấy lại tiền nhưng không được, nên đã làm đơn báo cơ quan Công an.

Khong đầu tháng /2021, bị cáo H gọi điện thoại cho chị Nguyễn Thị L2 (ngư i môi giới bán đất) tự nhận mình là Lê Thị L1 và th a thuận muốn bán đất rừng keo khoảng 01 ha ở xã Canh Hiệp với giá 100.000.000 đồng. Sau đó, bị cáo H dẫn chị Nguyễn Thị L2 và chị Phan Thị T trực tiếp đi xem đất. Đến ngày 08/ /2021, bị cáo sử dụng 01 bản phô tô Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH 00294 cấp ngày 11/11/2011 đứng tên Lê Thị L1 thuộc thửa đất số 17, t bản đồ số 22 thuộc khu vực SĐ, xã CH, huyện VC để thực hiện giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho anh Võ Song H1 với giá 90.000.000 đồng và lập 01 hợp đồng đặt cọc với số tiền 30.000.000 đồng, đồng th i th a thuận đến ngày 08/6/2021 thì công chứng. Giao dịch trên có thông qua ngư i môi giới là chị L2 và chị T. Đến ngày 2 / /2021, bị cáo H hẹn gặp H1 để nhận thêm 3 .000.000 đồng. Sau đó, nhiều lần anh H1, chị L2 liên lạc thì bị cáo lấy lý do, trốn tránh không công chứng, không nghe điện thoại. Chị L2, chị T và anh H1 đi đến thị trấn VC tìm hiểu thì biết chị Lê Thị L1 là cô ruột của bị cáo H. Chị L1 không liên hệ bán đất, ngư i mạo danh chị L1 bán đất là bị cáo Lê Thị H. Bằng thủ đoạn gian dối và hành vi như trên, bị cáo H đã chiếm đoạt của anh H1 tổng số tiền là 6 .000.000 đồng.

Trong giai đoạn điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, t ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; đã tự nguyện bồi thư ng, khắc phục hậu quả xong cho bị hại L số tiền 30.000.000 đồng (Ba mươi triệu đồng) và bị hại H1 số tiền 6 .000.000đ (Sáu mươi lăm triệu đồng).

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 03/2021/HS-ST ngày 22/11/2021 của Tòa án nhân dân huyện VC đã quyết định:

- Căn cứ vào điểm c khoản 2 Điều 174; các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 1; điểm g khoản 1 Điều 2, Điều 38 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Lê Thị H phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Xử phạt bị cáo Lê Thị H 24 (hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn được tính từ ngày bắt đi thi hành án.

- Ngày 30/11/2021, bị cáo Lê Thị H kháng cáo xin hưởng án treo hoặc cải tạo không giam giữ.

Tại phiên toà Kiểm sát viên đề nghị quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 1 Điều 3 ; điểm c khoản 1 Điều 3 7 của Bộ luật tố tụng hình sự; áp dụng thêm Điều 4 Bộ luật hình sự. Chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo Lê Thị H; Sửa bản án sơ thẩm về phần hình phạt, xử phạt bị cáo 18 tháng tù (giảm cho bị cáo 06 tháng tù) Trợ giúp viên pháp lý bào chữa cho bị cáo Lê Thị H: Bị cáo có nhân thân tốt, là dân tộc thiểu số, trình độ văn hóa thấp, sau khi phạm tội bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải và đã bồi thư ng toàn bộ thiệt hại cho hai bị hại, được bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn, mẹ già yếu, nên đề nghị hội đồng xét xử áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 1; Điều 4 BLHS, xử phạt bị cáo 18 tháng tù, tạo điều kiện cho bị cáo sớm tái hòa nhập cộng đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện VC, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện VC, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những ngư i tham gia tố tụng khác không khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, ngư i tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, ngư i tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội phù hợp với l i khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm, phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Do đó, hội đồng xét xử có đủ căn cứ để xác định vụ án như sau:

Để có tiền tiêu xài và trả nợ nên vào đầu tháng 8/2020 bị cáo Lê Thị H đã dùng thủ đoạn gian dối nói với anh Võ Hoàng L là đang trồng cây keo 4 năm tuổi tại khu vực Suối Bà Cay thuộc làng SĐ, xã CH, huyện VC và h i L để bán số keo này cho anh L nhưng thực chất số keo này là của ông Trần Trọng S trồng trên diện tích đất thuê của chị Lê Thị L1, anh L tưởng số keo này là của bị cáo nên đồng ý mua và bị cáo đã chiếm đoạt của anh L 30.000.000 đồng. Tiếp đến /2021, bị cáo H mạo danh mình là Lê Thị L1 và sử dụng 01 bản phô tô Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH 00294 cấp ngày 11/11/2011 đứng tên Lê Thị L1 thuộc thửa đất số 17, t bản đồ số 22 thuộc khu vực SĐ, xã CH, huyện VC để thực hiện giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho anh Võ Song H1 với giá 90.000.000 đồng và anh H1 đã giao trước cho bị cáo 6 .000.000 đồng. Như vậy tổng số tiền bị cáo chiếm đoạt của hai bị hại là 9 .000.000 đồng. Do đó, tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Lê Thị H về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” quy định tại điểm c khoản 2 Điều 174 của Bộ luật hình sự là có căn cứ.

[3] Xét kháng cáo của bị cáo Lê Thị H xin hưởng án treo hoặc cải tạo không giam giữ, hội đồng xét xử thấy rằng: Bị cáo Lê Thị H dùng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt 9 .000.000 đồng của anh Võ Hoàng L và anh Võ Song H1. Hành vi của bị cáo phạm vào điểm c khoản 2 Điều 174 BLHS có khung hình phạt từ 02 năm đến 07 năm tù. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đã bồi thư ng khắc phục hậu quả nên được các bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Do đó, bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 1 BLHS. Tuy nhiên hành vi phạm tội bị cáo thuộc trư ng hợp nghiêm trọng, bị cáo 02 lần thực hiện hành vi phạm tội nên phạm vào tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “phạm tội 02 lần trở lên” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 2 BLHS. Do đó, hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo xin giảm hình phạt, xin được hưởng án treo hoặc cải tạo không giam giữ của bị cáo Lê Thị H, giữ nguyên hình phạt án sơ thẩm đã tuyên.

Trợ giúp viên pháp lý đưa ra luận cứ bào chữa cho bị cáo Lê Thị H đề nghị hội đồng xét xử giảm hình phạt cho bị cáo là không phù hợp với nhận định của hội đồng xét xử, nên không được chấp nhận.

[4] Về án phí: Bị cáo Lê Thị H là dân tộc thiểu số nên được miễn nộp án phí Hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị giữ nguyên.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

[1] Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 3 ; Điều 3 6 của Bộ luật tố tụng hình sự. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo; Giữ nguyên bản án sơ thẩm.

[2] Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 174; các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 1; điểm g khoản 1 Điều 2; Điều 38 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Lê Thị H 24 (hai mươi bốn) tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt đi thi hành án.

[3] Về án phí: Bị cáo Lê Thị H được miễn án phí Hình sự phúc thẩm.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

176
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 51/2022/HSPT

Số hiệu:51/2022/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bình Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về