Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 41/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẮC KẠN

BẢN ÁN 41/2023/HS-ST NGÀY 24/08/2023 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 24/8/2023 tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh B xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 25/2023/TLST-HS ngày 02/6/2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 31/2023/QĐXXST-HS ngày 14/7/2023; Quyết định hoãn phiên tòa số: 26/2023/HSST-QĐ, ngày 28/7/2023 đối với bị cáo:

Nguyễn Tuấn A (Tên gọi khác: Không), sinh ngày 19/11/1998 tại huyện B, tỉnh B; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Thôn K, xã Q, huyện B, tỉnh B; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: Lớp 8/12; Dân tộc: Tày; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Tiến D và bà Hà Thị D1; Vợ Vũ Thị T và có 02 con, con lớn sinh năm 2019, con nhỏ sinh năm 2021; Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 15/01/2023 đến nay. Có mặt tại phiên tòa.

* Bị hại:

1. Ông Triệu Tài Đ, sinh năm 1986, trú tại: Thôn N, xã T, huyện C, tỉnh B. Có mặt

2. Ông Hà Hữu K, sinh năm 1979, trú tại: Thôn B, xã H, huyện C, tỉnh B. Có mặt

3. Lê Công B, sinh năm 1985, trú tại: Thôn C, xã C, huyện C, tỉnh B. Có mặt

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Ngô Thế T1, sinh năm 1965;

2. Ông Hoàng Văn P, sinh năm 1979; Đều trú tại: Thôn B, xã M, huyện B, tỉnh B. Có mặt

3. Bà Dương Thị B1, sinh năm 1973, trú tại: Thôn K, xã M, huyện B, tỉnh B. Vắng mặt

4. Ông Nguyễn Tiến D, sinh năm 1972; Có mặt

5. Bà Hà Thị D1, sinh năm 1977; Đều trú tại: Thôn K, xã Q, huyện B, tỉnh B. Có mặt

6. Bà Vũ Thị T, sinh năm 1998, trú tại: Thôn P, xã M, huyện B, tỉnh B. Vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do cần tiền để tiêu xài cá nhân, Nguyễn Tuấn A (sau đây viết tắt là Tuấn A) sinh năm 1998, trú tại thôn K, xã Q, huyện B, tỉnh B nẩy sinh ý định lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Tuấn A đã đưa ra nhiều thông tin gian dối để nhiều người góp tiền mua đồi cây gỗ rồi chiếm đoạt, cụ thể:

Ngày 09/3/2022 Tuấn A liên hệ qua điện thoại với ông Triệu Tài Đ sinh năm 1986, trú tại thôn N, xã T, huyện C, tỉnh B để rủ ông Đ cùng góp vốn mua đồi cây khai thác bán. Để cho ông Đ tin t góp tiền, ngày 10/3/2022 Tuấn A đưa ông Đ đi xem đồi cây của ông Ngô Thế T1, sinh năm 1965 và đồi cây của ông Hoàng Văn P, sinh năm 1972 cùng trú tại thôn B, xã M, huyện B. Tuấn A nói dối với ông Đ là đất thỏa thuận đồi cây của ông T1 giá 100.000.00đ (một trăm triệu đồng), mua đồi cây của ông P giá 160.000.000đ (một trăm sáu mươi triệu đồng). Sau khi xem đồi cây, ông Đ đồng ý góp tiền cùng khai thác, ngày 11/3/2022 ông Đ chuyển 35.000.000đ (ba mươi năm triệu đồng) từ số tài khoản 8600205146xxx của ông Đ cho Tuấn A qua số tài khoản 107872030xxx của Tuấn A để mua đồi cây của ông T1. Ngày 12/3/2022 Tuấn A hẹn ông Đ sang xem lại đồi cây của nhà ông P và nói đã thỏa thuận giá là 155.000.000đ (một trăm năm mươi năm triệu đồng). Sau khi xem xong ông Đ đồng ý mua và đưa cho Tuấn A 50.000.000đ (năm mươi triệu đồng) tiền mặt tại đường thuộc thôn Bản Luông, xã M, huyện B. Cũng trong ngày 12/3/2022 Tuấn A đưa ông Đ đi xem một đồi cây của gia đình bà Dương Thị B1, sinh năm 1973 ở thôn K, xã M do con trai bà B1 là Hoàng Hữu H dẫn đi. Do gia đình bà B1 đòi giá cao nên ông Đ không mua, nhưng sau đó Tuấn A gọi điện cho ông Đ nói đã thỏa thuận được giá là 38.000.000đ (ba mươi tám triệu đồng) nên ông Đ đồng ý góp tiền mua và chuyển khoản cho Tuấn A 35.000.000đ (ba mươi năm triệu đồng). Trên thực tế Tuấn A không thỏa thuận lại giá cả với gia đình bà Dương Thị B1 mà Tuấn A nói dối nhằm mục đích lừa ông Đ góp và chuyển tiền cho Tuấn A. Mấy ngày sau đó, Tuấn A gọi điện thoại cho ông Đ nói là đồi cây của nhà ông T1 và ông P chưa làm được đường để khai thác, còn đồi cây trong thôn K thì hơi xa nên Tuấn A tìm một đồi cây ở thôn Bản Luông, xã M ngay gần đường để khai thác trước và hẹn ông Đ sang xem đồi cây. Khi đi xem đồi cây Tuấn A nói với ông Đ chủ đồi cây ra giá 100.000.000đ (một trăm triệu đồng) nên ông Đ thấy giá cao chưa mua. Đến ngày 18/3/2022 Tuấn A gọi điện thoại lại cho ông Đ nói đã thỏa thuận giá đồi cây là 71.000.000đ (bẩy mươi mốt triệu đồng) và nói không còn tiền, đề nghị ông Đ bỏ tiền trước, ông Đ đồng ý góp 50.000.000đ (năm mươi triệu đồng), Tuấn A trực tiếp đến nhà ông Đ lấy tiền và hẹn ngày 19/3/2022 sẽ bắt đầu khai thác. Nhưng thực tế Tuấn A không biết tên chủ đồi cây đó và cũng không gặp ai để thỏa thuận như đã nói với ông Đ. Ngày 19/3/2022 ông Đ gọi điện thoại hỏi thì Tuấn A nói chưa tìm được người nên đợi vài hôm mới khai thác, thấy nghi ngờ nên ông Đ tìm hiểu thì phát hiện bị Tuấn A lừa, số tiền ông Đ đưa cho, Tuấn A không mua đồi cây nào mà mang sử dụng cá nhân hết. Ông Triệu Tài Đ gọi điện thoại cho Tuấn A nhưng không liên lạc được, ngày 21/3/2022 ông Đ cùng vợ là Bàn Thị N đến gặp Nguyễn Tuấn A tại nhà ở thôn P, xã M, Tuấn A thừa nhận đã chiếm đoạt số tiền 170.000.000đ (một trăm bẩy mươi triệu đồng) của ông Đ mang đi tiêu xài cá nhân hết.

Trong tháng 3/2022 Tuấn A liên hệ với ông Hà Hữu K, sinh năm 1979, trú tại thôn Bản Chang, xã H, huyện C, là người làm nghề thu mua gỗ, qua nói chuyện Tuấn A cho ông K biết bản thân đang khai thác gỗ mỡ tại xã M, huyện B và đặt vấn đề nếu ông K mua gỗ thì Tuấn A sẽ bán cho ông K. Ông K đồng ý mua gỗ của Tuấn A và hai bên thỏa thuận hẹn ngày 17/3/2022 ông K sẽ đến xã M để mua gỗ. Đến ngày 17/3/2022 Tuấn A gọi điện thoại cho ông K nói lý do thiếu tiền vốn và đề nghị ứng trước 50.000.000đ (năm mươi triệu đồng) để khai thác gỗ, ông K đồng ý, Tuấn A đến nhà và ông K đưa 10.000.000đ (mười triệu đồng) tiền mặt và chuyển khoản 40.000.000đ (bốn mươi triệu đồng) từ số tài khoản 8606205040xxx của ông K đến số tài khoản 107872030xxx của Tuấn A. Sau đó Tuấn A lấy lý do trời mưa, đường vận chuyển khó khăn chưa có gỗ để bốc. Ngày 26/3/2022 Tuấn A tiếp tục gọi điện thoại đề nghị ông K cho ứng thêm 20.000. 000đ (hai mươi triệu đồng) để mua và khai thác đồi cây khác, do đang ở xã Đ, huyện B, trong tài khoản không có tiền nên vợ ông K là bà Hoàng Thị T2, sinh năm 1982 đã đưa tiền mặt cho bà Trần Thị H1, trú tại thôn N, xã Đ để nhờ chuyển vào tài khoản của Tuấn A 20.000.000đ (hai mươi triệu đồng).

Ngày 28/3/2022 Tuấn A gọi điện thoại cho ông K nói bên cạnh đồi gỗ mỡ đang khai thác có một ít gỗ mỡ chủ cũng đang muốn bán nên đề nghị ứng tiền để mua. Ông K đồng ý và Tuấn A đến nhà ông K lấy 30.000.000đ (ba mươi triệu đồng) tiền mặt, ngày 01/4/2022 Tuấn A gọi điện thoại cho ông K đề nghị ứng 12.000. 000đ (mười hai triệu đồng) để làm đường vào đồi cây để khai thác gỗ nên ông K đã chuyển khoản cho Tuấn A. Ngày 05/4/2022 Tuấn A gọi điện thoại đề nghị ông K cho ứng 13.000.0004 (mười ba triệu đồng) để sửa đường vận chuyển gỗ và trả tiền công cho những người được Tuấn A thuê để khai thác gỗ nên ông K đã chuyển khoản cho Tuấn A. Ngày 06/4/2022 Tuấn Anh gọi điện thoại đề nghị ông K cho ứng 20.000.000đ (hai mươi triệu đồng) mua xe tắc tơ để vận chuyển gỗ ông K đồng ý và chuyển tiền cho Tuấn A, ngoài việc nhắn tin, Tuấn A còn gửi cho ông K nhiều hình ảnh (đã chụp từ trước) về việc đang khai thác, vận chuyển gỗ để gây lòng tin. Ngày 07/4/2022 Tuấn A hẹn ông K đến xã M để bốc gỗ nhưng khi hai vợ chồng ông K đến địa điểm hẹn không thấy có gỗ như hứa hẹn của Tuấn A thì mới phát hiện đã bị Tuấn A lừa lấy tổng cộng số tiền 145.000.000đ (một trăm bốn mươi lăm triệu đồng).

Cùng với thủ đoạn trên,Tuấn A liên lạc với ông Lê Công B, sinh năm 1985 trú tại thôn C, xã C, huyện C qua ứng dụng messenger để đặt vấn đề bán gỗ mỡ cho ông B và thỏa thuận giá cả với mục đích lừa đảo chiếm đoạt tiền của ông B. Ngày 16/3/2022 Tuấn A gọi điện thoại cho ông B nói có gỗ mỡ muốn bán và hẹn ông B đến xã M, huyện B xem gỗ. Ngày 17/3/2022, Tuấn A đưa ông B đi xem gỗ mới khai thác đang tập kết tại lề đường thuộc thôn K, xã M nhưng thực tế bãi gỗ đó không phải do Tuấn A khai thác. Đến buổi chiều Tuấn A gọi điện thoại cho ông B đề nghị ứng trước 30.000.000đ (ba mươi triệu đồng), ông B đồng ý và chuyển tiền từ số tài khoản 105800886xxx của ông B đến số tài khoản 107872030xxx của Tuấn A, buổi sáng ngày 18/3/2022 Tuấn A gọi điện thoại hẹn ông B buổi chiều đến bốc gỗ nhưng ông B bận hẹn Tuấn A bốc vào ngày 19/3/2022. Sau đó, Tuấn A gọi video cho ông B xem đồi cây đang định mua nhưng không đủ tiền và đề nghị ông B cho Tuấn A ứng trước 35.000.000đ (ba mươi năm triệu đồng) để mua đồi cây và thỏa thuận sau khi khai thác sẽ bán cho ông B để trừ số tiền đã ứng trước, ông B đồng ý và chuyển tiền cho Tuấn A, đến tối ông B gọi điện thoại cho Tuấn A nhưng không liên lạc được. Ngày 19/3/2022 ông B mang xe ô tô đến thôn K, xã M để bốc gỗ, nhưng đến nơi thấy mọi người đang bốc gỗ lên xe khác, ông B hỏi thì được biết số gỗ đó không phải do Tuấn Anh khai thác nên ông B mới biết đã bị Tuấn A lừa chiếm đoạt số tiền 65.000. 000đ (sáu mươi năm triệu đồng).

Quá trình điều tra xác định, tổng số tiền Nguyễn Tuấn A chiếm đoạt của ông T3 Tài Đ là 170.000.000đ (một trăm bẩy mươi triệu đồng); ông Hà Hữu K là 145.000.000đ (một trăm bốn mươi năm triệu đồng); ông Lê Công B là 65.000. 000đ (sáu mươi năm triệu đồng). Tổng cộng là 380.000.000đ (ba trăm tám mươi triệu đồng).

Cơ quan điều tra đã phong tỏa tài khoản: 107872030xxx của bị can Nguyễn Tuấn A tại Ngân hàng Thương mại cổ phần C (V) Chi nhánh B2, trong tài khoản có số tiền 166.000.000đ (một trăm sáu mươi sáu triệu đồng) và thu thập lịch sử giao dịch tài khoản của Nguyễn Tuấn A trong thời gian tháng 3, tháng 4 năm 2022.

Tại Bản cáo trạng số 28/CT-VKSBK ngày 01/6/2023 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh B đã truy tố Nguyễn Tuấn A về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 174 Bộ luật hình sự (BLHS). Điều luật có nội dung:

“1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

...

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;

...

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.” Tại phiên tòa:

Đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX) tuyên bố bị cáo phạm tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản" và đề nghị áp dụng điểm a khoản 3 Điều 174 BLHS, điểm b, s khoản 1 khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 54 BLHS. Xử phạt bị cáo từ 5 (năm) đến 6 (sáu) năm tù. Phạt bổ sung số tiền từ 10 đến 15 triệu để sung ngân sách Nhà nước.

Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ các Điều 584, 585, 586, 589 của Bộ luật dân sự năm 2015. Buộc bị cáo Nguyễn Tuấn A phải bồi thường cho người bị hại Triệu T, Hà Hữu K, Lê Công B số tiền bị cáo đã chiếm đoạt, cụ thể như sau:

- Buộc bồi thường cho bị hại Triệu T số tiền 170.000.000đ (một trăm bẩy mươi triệu đồng).

- Buộc bồi thường cho bị hại Hà Hữu K số tiền còn lại là 125.000.000đ (Một trăm hai mươi lăm triệu đồng).

- Buộc bồi thường cho bị hại Lê Công B số tiền còn lại là 50.000.000đ (năm mươi triệu đồng).

Việc thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 357 Bộ luật dân sự.

Vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu hóa giá sung quỹ Nhà nước: 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 màu bạc đã qua sử dụng.

- Tạm giữ để đảm bảo thi hành án cho bị cáo gồm: 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 13 màu xám đã qua sử dụng và số tiền 3.080.000đ (ba triệu, không trăm tám mươi nghìn đồng).

- Đối với số tiền 166.000.000đ (một trăm sáu mươi sáu triệu đồng) trong tài khoản: 107872030xxx của bị cáo Nguyễn Tuấn A tại Ngân hàng Thương mại cổ phần C (V) Chi nhánh B2, Cơ quan điều tra đã phong tỏa cần hủy lệnh phong tỏa và tạm giữ để đảm bảo thi hành án cho bị cáo.

Tại phiên tòa các bị hại đều thừa nhận vì quá tin tưởng bị cáo, mất cảnh giác không tìm hiểu kỹ đối với những người có tài sản là rừng có nhu cầu bán để mua, qua đó đã tạo điều kiện cho bị cáo phạm tội và đều có lời nói đề nghị HĐXX giảm nhẹ trách nhiệm cho bị cáo NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp, đúng quy định của pháp luật.

[2] Về hành vi phạm tội: Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như Cáo trạng đã quy kết. Lời khai nhận phù hợp với lời khai của những người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và các chứng cứ tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Do đó, HĐXX có đủ cơ sở khẳng định:

Do cần tiền để tiêu xài cá nhân nên trong khoảng tháng 3, tháng 4 năm 2022, Nguyễn Tuấn A đã đưa ra nhiều thông tin gian dối để mọi người tin tưởng góp tiền mua gỗ, mua đồi cây gỗ để khai thác, rồi chiếm đoạt tiền của họ. Cụ thể: Nguyễn Tuấn A đã chiếm đoạt của ông T3 Tài Đ là 170.000.000đ (một trăm bẩy mươi triệu đồng); ông Hà Hữu K là 145.000.000đ (một trăm bốn mươi năm triệu đồng); ông Lê Công B là 65.000.000đ (sáu mươi năm triệu đồng). Tổng cộng là 380.000.000đ.

Hành vi bị cáo thực hiện đã phạm vào tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản ” theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 174 BLHS. Cáo trạng truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Hành vi bị cáo thực hiện là rất nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, gây mất an ninh trật tự trị, an toàn xã hội tại địa phương. Do vậy, cần thiết phải có mức hình phạt nghiêm khắc mới đủ sức răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[4] Xét nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự :

Bị cáo có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự. Bị cáo thực hiện nhiều lần hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản nên phải chịu tình tiết tăng nặng là "Phạm tội hai lần trở lên" theo quy định điểm g khoản 1 Điều 52 BLHS.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo "Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải" về hành vi phạm tội. Bị cáo đã tự nguyện bồi thường cho các bị hại số tiền đã chiếm đoạt, cụ thể bồi thường cho ông Lê Công B số tiền 5.000.000đ; tác động gia đình bồi thường cho ông B số tiền 10.000.000đ, ông Hà Hữu K số tiền 20.000. 000đ, và được các bị hại là ông Lê Công B, ông Hà Hữu K làm đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Tại phiên tòa cả ba bị hại cùng có lời nói đề nghị HĐXX giảm nhẹ trách nhiệm cho bị cáo. Ngoài ra gia đình bị cáo nộp một giấy xác nhận đóng dấu của chính quyền nơi cư trú về việc gia đình chấp hành tốt pháp luật của nhà nước và hương ước, quy ước tại địa phương, Như vậy, bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm b, s khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xét thấy, bị cáo là lần đầu phạm tội, sau khi sự việc phạm tội xảy ra bản thân đã tích cực vận động gia đình bồi thường một phần thiệt hại cho các bị hại và được các bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Bị cáo được hưởng nhiều tình tiết giảm nhẹ trong đó có hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS nên theo quy định thì đủ điều kiện áp dụng Điều 54 BLHS giảm hình phạt tù xuống dưới mức thấp nhất của khung hình phạt đã truy tố đối với bị cáo.

[5] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội vì mục đích vụ lợi. Do đó, cần áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về trách nhiệm dân sự:

- Ông Nguyễn Tiến D, sinh năm 1972 và bà Hà Thị D1, sinh năm 1977 là bố mẹ đẻ của bị cáo, trong giai đoạn điều tra ông D và bà D1 đã giúp bồi thường cho bị hại ông Lê Công B 10.000.000đ (mười triệu đồng), số tiền này ông D và bà D1 không yêu cầu Nguyễn Tuấn A trả lại, nên HĐXX không xem xét.

- Bà Vũ Thị T vợ của bị cáo, trong giai đoạn điều tra đã giúp bồi thường cho bị hại ông Hà Hữu K 20.000.000đ (hai mươi triệu đồng), số tiền này bà Vũ Thị T không yêu cầu bị cáo trả lại nên HĐXX không xem xét.

- Bị hại ông T3 Tài Đ yêu cầu bị cáo trả lại toàn bộ số tiền đã chiếm đoạt là 170.000.000 đ (một trăm bẩy mươi triệu đồng) nên buộc bị cáo phải bồi thường toàn bộ số tiền này cho ông Đ.

- Bị hại ông Hà Hữu K yêu cầu Nguyễn Tuấn A trả lại toàn bộ số tiền là 145.000.000đ (một trăm bốn mươi năm triệu đồng), hiện nay gia đình bị cáo đã trả 20.000.000đ (hai mươi triệu đồng), còn phải bồi thường số tiền 125.000.000đ (một trăm hai mươi năm triệu đồng), cần buộc bị cáo phải bồi thường số tiền còn lại cho ông K.

- Bị hại ông Lê Công B yêu cầu Nguyễn Tuấn A trả lại số tiền 65.000.000đ (sáu mươi năm triệu đồng). Hiện nay bị cáo và gia đình đã trả lại cho ông B số tiền 15.000.000đ (mười năm triệu đồng) còn phải bồi thường tiếp số tiền 50.000.000đ (năm mươi triệu đồng). Cần buộc bị cáo phải bồi thường số tiền còn lại cho ông B.

[7] Về xử lý vật chứng:

Ngày 18/01/2023 Cơ quan CSĐT Công an tỉnh B tạm giữ trên người Nguyễn Tuấn A, gồm: 01 (một) sợi dây chuyền bằng kim loại màu vàng (không xác định chất liệu), 01 (một) chiếc đồng hồ đeo tay đã qua sử dụng có nguồn gốc do Vũ Thị T là vợ của bị cáo mua cho. Quá trình điều tra xác định các đồ vật này không liên quan đến hành vi của bị cáo, việc trả lại các đồ vật tài sản này không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án. Cơ quan CSĐT đã trả lại cho bị cáo Nguyễn Tuấn A và chị Vũ Thị T.

* Các vật chứng hiện đang tạm giữ xử lý như sau:

- 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 màu bạc đã qua sử dụng; xác định là phương tiện bị cáo sử dụng liên lạc, nhắn tin gọi điện lừa đảo chiếm đoạt tài sản cần tịch thu hóa giá sung quỹ Nhà nước.

- 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 13 màu xám đã qua sử dụng, không liên quan đến hành vi phạm tội cần tạm giữ để đảm bảo thi hành án cho bị cáo.

- Số tiền 3.080.000đ (ba triệu, không trăm tám mươi nghìn đồng), cần tạm giữ để đảm bảo thi hành án cho bị cáo.

- Đối với tài khoản: 107872030xxx của bị can Nguyễn Tuấn A tại Ngân hàng Thương mại cổ phần C (V) Chi nhánh B2, trong tài khoản có số tiền 166.000.000đ (một trăm sáu mươi sáu triệu đồng) Cơ quan điều tra đã phong tỏa, qua thẩm vấn tại phiên tòa xác định số tiền của bị cáo đi làm thuê được trả công nên không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nên cần hủy lệnh phong tỏa và tạm giữ để đảm bảo thi hành án cho bị cáo.

[8] Trong vụ án còn có nội dung: Trong quá trình điều tra phát hiện ngoài hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản, ngày 18 và 19/3/2022 Nguyễn Tuấn A có vay mượn ông Hoàng Tiến T4, sinh năm 1989, trú tại thôn N, xã M, huyện B, tỉnh B số tiền 25.000.000đ (hai mươi năm triệu đồng). Quá trình điều tra xác định Nguyễn Tuấn A đã trả đủ tiền cho ông T4. Cơ quan điều tra không xem xét xử lý là đúng quy định.

[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

 1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Tuấn A phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Áp dụng điểm a khoản 3 khoản 5 Điều 174; điểm b, s khoản 1 khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 54BTHS. Xử phạt bị cáo Nguyễn Tuấn A 05 (năm) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 15/01/2023.

Phạt bổ sung bị cáo số tiền 10.000.000đ (Mười triệu đồng) để nộp ngân sách Nhà nước.

2. Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ các Điều 584, 585, 586, 589 của Bộ luật dân sự năm 2015.

Buộc bị cáo Nguyễn Tuấn A phải bồi thường cho người bị hại Triệu T, Hà Hữu K, Lê Công B số tiền bị cáo đã chiếm đoạt, cụ thể như sau:

- Buộc bồi thường cho bị hại Triệu T số tiền 170.000.000đ (một trăm bẩy mươi triệu đồng).

- Buộc bồi thường cho bị hại Hà Hữu K số tiền còn lại là 125.000.000đ (Một trăm hai mươi lăm triệu đồng).

- Buộc bồi thường cho bị hại Lê Công B số tiền còn lại là 50.000.000đ (năm mươi triệu đồng).

Việc thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 357 Bộ luật dân sự.

3. Vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu hóa giá sung quỹ Nhà nước: 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 màu bạc đã qua sử dụng.

- Tạm giữ để đảm bảo thi hành án cho bị cáo gồm: 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 13 màu xám đã qua sử dụng và số tiền 3.080.000đ (ba triệu, không trăm tám mươi nghìn đồng).

- Hủy lệnh phong tỏa và tạm giữ số tiền 166.000.000đ (một trăm sáu mươi sáu triệu đồng) trong tài khoản: 107872030xxx của bị cáo Nguyễn Tuấn A tại Ngân hàng Thương mại cổ phần C (V) Chi nhánh B2 để đảm bảo thi hành án cho bị cáo.

(Tình trạng, số lượng vật chứng theo như biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an tỉnh B và Cục thi hành án dân sự tỉnh B).

4. Án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thương vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Nguyễn Tuấn A phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 17.250.000đ (Mười bảy triệu hai trăm năm mươi nghìn đồng) án phí dân sự có giá ngạch.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án,tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

5. Quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm, bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc ngày Bản án được niêm yết theo quy định.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

5
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 41/2023/HS-ST

Số hiệu:41/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bắc Kạn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/08/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về