TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TỈNH ĐÀ NẴNG
BẢN ÁN 410/2021/HS-PT NGÀY 30/09/2021 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
Vào ngày 30 tháng 9 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Kon Tum, Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nang xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 420/2021/TLPT-HS ngày 05 tháng 8 năm 2021 đối với bị cáo Lê Thị Kim T bị tòa án cấp sơ thẩm xét xử về tội “ Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Do có kháng cáo của bị hại đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 30/2021/HS-ST ngày 30/06/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Kon Tum.
- Bị cáo:
Lê Thị Kim T, sinh ngày 20 tháng 08 năm 1965, tại tỉnh Thanh Hóa; Nơi cư trú: tỉnh Kon Tum; Nghề nghiệp: Nội trợ; Trình độ học vấn: 10/10; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lê Q (Lê Q) (đã chết) và bà PhạmThị N, sinh năm 1942; Chồng là Hoàng Văn B, sinh năm 1960; Con: 02 người con, con lớn sinh năm 1990, con nhỏ sinh năm 1992; Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 14/01/2021. (có mặt)
- Bị hại kháng cáo: Bà Nguyễn Thị L, sinh năm: 1964; Trú tại: tỉnh Kon Tum. (có mặt)
- Người bào chữa cho bị cáo: Ông Hoàng Minh T - Văn phòng Luật sư M thuộc Đoàn luật sư tỉnh Kon Tum;
Trú tại: tỉnh Kon Tum. (có mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo Bản án sơ thẩm, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Bị cáo Lê Thị Kim T, sinh năm 1965, trú tại số tỉnh Kon Tum, làm nghề nội trợ không có thẩm quyền xét tuyển vào học tại trường Công an nhân dân, tuyển dụng vào ngành Công an và các Cơ quan nhà nước. Đồng thời không có mối quan hệ quen biết với ai có thẩm quyền xét tuyển, tuyển dụng nhưng T đã đưa ra thông tin không đúng sự thật là mình có quan hệ, quen biết với một số người có chức quyền nên có thể nhờ xin việc vào làm ở các Bệnh viện, vào ngành Công an và đi học trung cấp Công an nhưng phải đưa tiền cho T để xin việc, xin đi học. Từ ngày 15/10/2014 đến ngày 06/04/2015 Lê Thị Kim T đã nhận tiền của bà Nguyễn Thị L nhiều lần, để xin cho các con và cháu của bà L như sau:
Xin cho Trần H C số tiền là 400.000.000 đồng
Xin cho Trần Trung H số tiền là 250.000.000 đồng.
Xin cho Nguyễn Văn P số tiền là 300.000.000 đồng.
Tổng cộng bị cáo T đã nhận và chiếm đoạt của bà Nguyễn Thị L số tiền số tiền là 950.000.000 đồng. Ngoài ra, L còn xin cho Đoàn Đức A và một trường hợp khác với số tiền là 180.000.000 đồng; Đối với số tiền 180.000.000 đồng,sau khi không xin được việc làm, T đã trả lại số tiền 180.000.000 đồng và bà L, Đoàn Đức A không có yêu cầu xem xét đối với số tiền trên.
Như vậy, Lê Thị Kim T đã nhiều lần nhận tiền, để xin cho các con và cháu của bà L vào làm, đi học trong ngành Công an nhưng không xin được và đã chiếm đoạt tổng số tiền là 950.000.000 đồng. Đến nay, bị cáo T đã trả cho bị hại số tiền là 475.000.00 đồng.
Tại bản kết luận giám định số 40/KLGĐ-PC09 ngày 02/03/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Kon Tum kết luận:
- Chữ viết trên các tài liệu cần giám định (ký hiệu từ A1 đến A6) với chữ viết “Lê Thị Kim T” dưới mục “Người báo tin” trên tài liệu mẫu so sánh ký hiệu M1 và dưới mục ‘‘Người khai” trên các tài liệu mẫu so sánh ký hiệu từ M2 đến M6 là do cùng một người viết ra.
- Chữ ký đứng tên Lê Thị Kim T trên các tài liệu cần giám định (ký hiệu từ A1 đến A6) với chữ ký của Lê Thị Kim T trên các tài liệu mẫu so sánh (ký hiệu từ M1 đến M6 là do cùng một người ký ra.
Với nội dung nêu trên, tại Bản án hình sự sơ thẩm số 30/HSST ngày 30 tháng 6 năm 2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Kon Tum đã quyết định.
1. Tuyên bố: Bị cáo Lê Thị Kim T phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174, điểm b, S, X khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự năm 2015.
Xử phạt: Bị cáo Lê Thị Kim T 09 (chín) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam là ngày 14/01/2021.
2. Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 48 Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 584, Điều 585, Điều 589 Bộ luật dân sự năm 2015.
Buộc bị cáo Lê Thị Kim T phải bồi thường cho bị hại bà Nguyễn Thị L số tiền là 475.000.000 đồng(Bốn trăm bảy mươi lăm triệu)
Bản án còn quyết định về án phí xử lý tang vật và quyền kháng cáo của bị cáo, bị hại.
Trong hạn luật định, bị hại kháng cáo yêu cầu tăng hình phạt đối với bị cáo và buộc bị cáo phải bồi thường khoản tiền 180.000.000 đồng.
Tại phiên tòa phúc thẩm bị hại vẫn giữ nguyên nội dung đơn xin kháng cáo.
Đại diện Viện kiểm sát đề nghị hội đồng xét xử không chấp nhận đơn xin kháng cáo của bị hại.
Người bào chữa cho bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận đơn kháng cáo của bị hại.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ có tại hồ sơ vụ án, lời khai nhận của bị cáo, ý kiến người bào chữa và kết quả tranh luận tại phiên tòa. Trên cơ sở xem xét đánh giá khách quan toàn diện và đầy đủ chứng cứ. Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Từ ngày 15/10/2014 đến ngày 06/04/2015 Lê Thị Kim T đã nhiều lần đưa ra thông tin gian dối, không đúng sự thật là mình có mối quan hệ, quen biết với một số người có chức quyền nên có thể nhờ xin việc vào ngành Công an và đi học trung cấp Công an nhân dân, để bà Nguyễn Thị L tin tưởng và nhiều lần đưa tiền để xin cho các con của bà L là Trần H C đi học trung cấp Công an, xin cho Trần Trung H vào làm trong ngành Công an và Nguyễn Văn P đi học trung cấp Công an nhưng không xin được rồi chiếm đoạt của bị hại bà Nguyễn Thị L với tổng số tiền là 950.000.000 đồng.
Với hành vi nêu trên Bản án sơ thẩm đã xét xử bị cáo Lê Thị Kim T về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật hình sự năm 2015 là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
[2] Xét đơn xin kháng cáo của bị hại, Hội đồng xét xử xét thấy;
[2.1] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, cố ý xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự trên địa bàn tỉnh Kon Tum. Bản án sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, đồng thời áp dụng đủ các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự để xử phạt bị cáo 09 (chín) năm theo khoản 4 Điều 174 BLHS là thỏa đáng, tại cấp sơ thẩm bị hại cũng có ý kiến xin giảm nhẹ cho bị cáo. Tại cấp phúc thẩm không có tình tiết giảm nhẹ hay tăng nặng nào mới, do vậy đơn kháng cáo của bị hại không có căn cứ được chấp nhận.
[2.2] Đối với kháng cáo của bị hại yêu cầu buộc bị cáo phải bồi thường số tiền 180.000.000 đồng; Hội đồng xét xử xét thấy: Đối với số tiền 180.000.000 đồng bị cáo đã nhận của bị hại để xin đi làm cho các trường hợp tại Bệnh viện, trường học và ngành thuế; bị cáo khai sau khi không xin được cho các trường hợp trên bị cáo đã trả lại số tiền này. Tại bút lục số 237, 238 bị hại bà L khai: “bị cáo T đã trả số tiền này và không yêu cầu điều tra” và tại phiên tòa sơ thẩm bị hại cũng không yêu cầu xem xét khoản tiền này vì bị cáo đã trả cho bị hại. Như vậy Bản án sơ thẩm đã không buộc bị cáo phải bồi thường số tiền 180.000.000 đồng nêu trên là có căn cứ, vì thế yêu cầu kháng cáo của bà L về khoản tiền 180.000.000 đồng là không có cơ sở được chấp nhận.
Về án phí: Bị hại phải chịu án phí dân sự phúc thẩm do yêu cầu kháng cáo không được chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Không chấp nhận đơn kháng cáo của bị hại Nguyễn Thị L. Giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số: 30/2021/HS-ST ngày 30-6-2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Kon Tum.
1. Tuyên bố: Bị cáo Lê Thị Kim T phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174, điểm b, S, X khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự năm 2015.
Xử phạt: Bị cáo Lê Thị Kim T 09 (chín) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản ”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam là ngày 14/01/2021.
2. Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 48 Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 584, Điều 585, Điều 589 Bộ luật dân sự năm 2015.
Buộc bị cáo Lê Thị Kim T phải bồi thường cho bị hại bà Nguyễn Thị L số tiền là 475.000.000 đồng (Bốn trăm bảy mươi lăm triệu).
Căn cứ khoản 2 Điều 357 Bộ luật dân sự năm 2015. Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật và Bà Nguyễn Thị L có đơn yêu cầu thi hành án đối với khoản tiền được bồi thường mà bị cáo Lê Thị Kim T chậm trả số tiền nêu trên thì phải trả lãi đối với số tiền chậm trả theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự 2015, cho đến khi thi hành án xong số tiền trên.
3. Về án phí: Bà Nguyễn Thị L phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí dân sự phúc thẩm, số tiền 300.000 đồng bà L đã nộp theo biên lai thu tiền số 0004864 ngày 22 tháng 7 năm 2021 tại Cục thi hành án dân sự tỉnh Kon Tum nay được chuyển thành tiền án phí dân sự phúc thẩm.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo kháng nghị có hiệu lực pháp luật.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực thi hành.
Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 410/2021/HS-PT
Số hiệu: | 410/2021/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 30/09/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về