Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 38/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÙ YÊN, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 38/2022/HS-ST NGÀY 10/06/2022 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 10 tháng 6 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 40/2022/TLST-HS ngày 20 tháng 5 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 36/2022/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 5 năm 2022 đối với bị cáo: Đinh Văn Th, sinh ngày 02 tháng 7 năm 1985 tại Phù Yên; nơi cư trú: Bản X, xã Huy Thượng, huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 06/12; dân tộc: Mường; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Đinh Văn B (đã chết); con bà: Đinh Thị T; có vợ là Đinh Thị L (đã ly hôn), bị cáo có 02 con; tiền án: Ngày 30/11/2016, bị Tòa án nhân dân huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ xử phạt 30 tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy; ngày 12/7/2019, bị Tòa án nhân dân huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La xử phạt 24 tháng tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản; tiền sự: không; nhân thân: nghiện ma túy, ngày 12/3/2019, bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Huy Thượng, huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính “giáo dục tại xã” với thời gian 3 tháng về hành vi sử dụng ma túy; bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 25 tháng 02 năm 2022 đến nay; “có mặt”.

- Bị hại: Anh Hoàng Ngọc Viên, sinh năm 1962, nơi cư trú: Bản Úm 2, xã Huy Thượng, huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La; “vắng mặt”.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: ông Đỗ Văn M, sinh năm 1976, nơi cư trú: tiểu khu 6, thị trấn Phù Yên, huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La, “vắng mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoản 18 giờ ngày 18/01/2022, bị cáo Đinh Văn Th đang đi bộ tại khu vực bản Úm 2, xã Huy Thượng thì gặp anh Hoàng Ngọc Viên đang bốc gốc cây đào lên xe ô tô. Bị cáo Th phát hiện chiếc xe mô tô của anh Viên đang dựng ở lề đường nên nảy sinh ý định chiếm đoạt chiếc xe để bán lấy tiền tiêu xài. Bị cáo Th hỏi mượn xe mô tô của anh Viên để đi mua thức ăn rồi điều khiển xe mô tô đến bán cho ông Đỗ Văn M, địa chỉ tại tiểu khu 6, thị trấn Phù Yên với giá 10.000.000 đồng. Toàn bộ số tiền có được từ việc bán chiếc xe mô tô của anh Viên, bị cáo Th đã chi tiêu cá nhân hết.

Ngày 15/02/2022, cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La yêu cầu định giá tài sản. Tại bản kết luận định giá tài sản số 02/KL ĐGTS ngày 16/02/2022 của Hội đồng định giá tài sản- UBND huyện Phù Yên kết luận (Bút lục số 51): Chiếc chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA Wave màu đen bạc, BKS 26D1 - 357.27 trị giá: 17.000.000 đồng.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận của Hội đồng định giá nêu trên.

Với những tình tiết như trên, tại Cáo trạng số: 31/CT – VKS - PY ngày 19/5/2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La đã truy tố Đinh Văn Th về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 174 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Đinh Văn Th khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa phát biểu quan điểm luận tội, giữ nguyên quan điểm truy tố. Hành vi của bị cáo Đinh Văn Th đủ yếu tố cấu thành tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 174; điểm b,s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự; Xử phạt bị cáo Đinh Văn Th từ 2 năm 6 tháng đến 3 năm tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về vật chứng của vụ án: Áp dụng khoản 2 Điều 47 BLHS; điểm b khoản 3 Điều 106 BLTTHS. Chấp nhận Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Yên đã trả lại cho anh Hoàng Ngọc Viên 01 xe mô tô, 01 đăng ký xe mô tô mang tên Hoàng Ngọc Viên.

Chấp nhận bị cáo Th và gia đình tự nguyện bồi thường cho ông Đỗ Văn M khoản tiền 10.000.000 đồng.

Trong phần đối đáp, bị cáo Đinh Văn Th nhất trí với quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Yên. Bị hại gửi đơn đề nghị vắng mặt tại phiên tòa và đề nghị hội đồng xét xử áp dụng hình phạt đối với bị cáo đúng theo quy định của pháp luật. Về trách nhiệm dân sự, bị hại không yêu cầu bị cáo bồi thường thêm khoản tiền nào khác. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Đỗ Văn M đề nghị Tòa án ghi nhận việc bị cáo Th và gia đình tự nguyện bồi thường khoản tiền 10.000.000 đồng.

Kết thúc tranh luận, bị cáo trình bày lời nói sau cùng, bị cáo Đinh Văn Th đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Phù Yên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Yên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại và người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Đinh Văn Th khai nhận đã sử dụng thủ đoạn gian dối đối với chủ sở hữu tài sản để chiếm đoạt 01 chiếc xe mô tô của anh Hoàng Ngọc Viên. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra; phù hợp với lời khai của bị hại cũng như của những người làm chứng; phù hợp với biên bản khám nghiệm hiện trường, biên bản thu giữ vật chứng và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Theo kết luận định giá tài sản, chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA Wave của anh Hoàng Ngọc Viên có trị giá 17.000.000 đồng.

Bị cáo Đinh Văn Th là người đã tái phạm, chưa được xóa án tích lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý. Căn cứ quy định tại điểm b khoản 2 Điều 53 của Bộ luật hình sự, hành vi của bị cáo Đinh Văn Th thuộc trường hợp “Tái phạm nguy hiểm”.

Theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 174 của Bộ luật hình sự thì “ 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm: d) Tái phạm nguy hiểm;”.

Như vậy, hành vi của bị cáo Th đã cấu thành tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo điểm d khoản 2 Điều 174 của Bộ luật hình sự.

[3] Về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội; nhân thân người phạm tội và về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

[3.1] Về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, gây nguy hại lớn cho xã hội. Xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản của cá nhân, ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội trên địa bàn. Khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo nhận thức được việc xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác là trái pháp luật. Tuy nhiên, do hám lợi trước mắt, bị cáo đã bất chấp quy định của pháp luật, cố ý phạm tội.

[3.2] Về nhân thân người phạm tội: Bị cáo có nhân thân xấu, có nhiều tiền án, nghiện ma túy. Bản thân là người dân tộc thiểu số, sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế, văn hóa xã hội khó khăn; trình độ học vấn thấp, học hết lớp 6 thì bỏ học ở nhà làm nghề lao động tự do.

[3.3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo; tự nguyên bồi thường, khắc phục hậu quả. Hội đồng xét xử cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với bị cáo. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Từ việc phân tích, đánh giá những căn cứ quyết định hình phạt ở trên, Hội đồng xét xử thấy cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo, với mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, đủ để giáo dục, cải tạo bị cáo thành người công dân tốt, có ích cho xã hội.

Về hình phạt bổ sung, theo quy định tại khoản 5 Điều 174 Bộ luật Hình sự quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”. Do đó, bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo là người lao động tự do, thu nhập không ổn định, điều kiện kinh tế còn khó khăn (Bút lục số 153, 154). Do đó, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[4] Về vật chứng, Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Yên đã trả lại tài sản cho anh Hoàng Ngọc Viên là chủ sở hữu hợp pháp, Hội đồng xét xử cần chấp nhận.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Tài sản bị chiếm đoạt là chiếc xe mô tô, bị hại đã nhận lại. Bị hại không yêu cầu bồi thường thêm khoản tiền nào khác nên Hội đồng xét xử không xem xét. Xét thỏa thuận hoàn trả số tiền 10.000.000 đồng của bị cáo, gia đình bị cáo và ông Đỗ Văn M (người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan) là tự nguyện, không trái pháp luật, Hội đồng xét xử cần ghi nhận.

Đối với ông Đỗ Văn M, là người mua chiếc xe, ông Minh không biết chiếc xe mô tô do bị cáo phạm tội mà có, việc mua bán xe là ngay tình. Cơ quan điều tra không xử lý đối với ông Minh là có căn cứ, đúng pháp luật, cần chấp nhận.

Do đến ngày xét xử, thời hạn tạm giam đối với bị cáo Đinh Văn Th đã hết nên Hội đồng xét xử cần tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo việc thi hành án.

[6] Về án phí, bị cáo Th là cá nhân thuộc hộ cận nghèo, căn cứ quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội, Bị cáo được miễn nộp án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm d khoản 2 Điều 174, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự;

1. Tuyên bố: Bị cáo Đinh Văn Th phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Xử phạt Đinh Văn Th 30 (ba mươi) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giam (ngày 25/02/2022).

2. Về vật chứng:

Căn cứ khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm b khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự;

Chấp nhận Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Yên đã trả lại cho anh Hoàng Ngọc V 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA Wave, màu đen bạc, biển kiểm soát 26D1 - 357.27 và 01 đăng ký xe mô tô mang tên Hoàng Ngọc Viên.

3. Về trách nhiệm dân sự: Ghi nhận bị cáo Th và gia đình tự nguyện hoàn trả cho ông Đỗ Văn M khoản tiền 10.000.000 đồng (mười triệu đồng).

4. Về án phí:

Căn cứ khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12; điểm a khoản 1 Điều 23; các Điều 14, 15 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội.

Bị cáo Đinh Văn Th được miễn nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 10/6/2022). Bị hại có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo phần bản án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

180
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 38/2022/HS-ST

Số hiệu:38/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phù Yên - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về