Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 30/2024/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHỦ LÝ - TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 30/2024/HS-ST NGÀY 13/03/2024 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 13 tháng 3 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam, xét xử sơ thẩm công khai theo thủ tục rút gọn vụ án hình sự thụ lý số 35/2024/TLHS-HS ngày 26 tháng 02 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 41/2024/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 3 năm 2024, đối với bị cáo:

Phạm Công M, sinh năm 1993 tại Hà Nội; nơi cư trú: Thôn S, xã S, huyện P, thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Công H (đã chết) và bà Nguyễn Thị T; có vợ là Nguyễn Thị X, sinh năm 1997; con: Chưa có; tiền án: Ngày 11/11/2022, Tòa án nhân dân tỉnh Hà Nam xử phạt 06 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 01/12/2022; tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt, tạm giữ từ ngày 04/01/2024, chuyển tạm giam từ ngày 13/01/2024 đến nay; Có mặt.

* Bị hại: Chị Lê Thị Hương N, sinh năm 1987; trú tại: Xóm 14, xã K, huyện K, tỉnh Hà Nam; vắng mặt.

* Người làm chứng:

- Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 2005; vắng mặt.

- Anh Vũ Đức T, sinh năm 2001; vắng mặt.

- Anh Hoàng Minh T, sinh năm 2004; vắng mặt.

* Người chứng kiến: Ông Trần Xuân T, sinh năm 1974; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng tháng 8/2023, Phạm Công M, sử dụng nick Facebook “Đơn giản”, tìm kiếm trên mạng xã hội Facebook để kết bạn. Qua mạng xã hội, M đã kết bạn với nick Facebook “Lê Hương N” của chị Lê Thị Hương N. M tự giới thiệu đang công tác tại Công an thành phố Hà Nội để tạo sự tin tưởng. Đến ngày 03/01/2024, chị N nhắn tin nói chuyện với M về việc bị Công an thành phố Phủ Lý triệu tập liên quan đến hành vi chia sẻ thông tin không đúng sự thật trên trang mạng xã hội Facebook. M nhắn tin nói dối với chị N là mình có quen người tên "C" đang làm tại Công an tỉnh Hà Nam có quen biết với cán bộ điều tra Công an thành phố Phủ Lý và yêu cầu chị N đưa số tiền 5.000.000đ để giúp chị N không bị xử lý. Sau đó, M giả danh là cán bộ tên "C" hẹn chị N chiều ngày 04/01/2024 gặp tại quán cà phê C thuộc tổ 5, phường L, thành phố P, tỉnh Hà Nam để giao tiền. Khoảng 15 giờ ngày 04/01/2024, M điều khiển xe máy biển số 33R5-09xx và rủ Nguyễn Văn T đi cùng. Khi đến nơi thì T đứng ở ngoài quán chờ còn M vào trong quán cà phê. Khi gặp chị N thì M giới thiệu tên "C" đang công tác tại Công an tỉnh Hà Nam. Để tạo lòng tin với chị N, M viết đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho chị N và bảo chị N ký vào đơn, sau đó M yêu cầu chị N đưa tiền và 01 điện thoại Iphone 14 Promax của chị N (nhưng chị N phải cung cấp mật khẩu và tháo sim trong điện thoại) để M lo "chạy án" cho chị N. Khi chị chị N đang giao cho M 01 phòng bì bên trong có số tiền 5.000.000đ và 01 một điện thoại di động Iphone 14 Promax thì Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Phủ Lý phối hợp cùng phòng An ninh mạng và phòng chống tội phạm sử dụng cao Công an tỉnh Hà Nam bắt quả tang.

* Vật chứng thu giữ:

- 01 túi nilon có chữ My clear bag bên trong có: 01 đơn xin giảm nhẹ hình phạt đề ngày 04/01/2024 có chữ ký của chị Lê Thị Hương N, sinh năm: 1987, nơi cư trú: xóm 14, xã K, huyện K, tỉnh Hà Nam; 01 phong bì màu trắng có chữ "VIA AIR MAIL" bên trong có 10 tờ tiền mệnh giá 500.000đ (năm trăm nghìn đồng).

- 01 điện thoại Iphone X, màu trắng, số IMEI: 35484909188947 bên trong có chứa 01 sim viettel có dãy số 8984048000909383366.

- 01 điện thoại Iphone 14 Promax, màu Gold, số IMEI1: 355216223037600, số IMEI2: 355216223252118, bên trong có chứa 01 sim viettel có dãy số 8984048000037766842.

- 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Airblade màu đen đeo biển số 33R5-09xx, số khung RLHJF 18018Y401776, số máy JF18E-5222807.

Ngày 07/01/2024, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Phủ Lý đã ra Yêu cầu định giá tài sản số 61/YC-ĐTTH trưng cầu Hội đồng định giá tài sản thành phố P định giá chiếc điện thoại di động Iphone 14 Promax 256 GB màu vàng đen số IMEI 355216223037600, bên trong có chứa 01 sim viettel có dãy số 8984048000037766842.

Tại bản kết luận giám định số 02/KL-HĐĐGTS ngày 11/01/2024 của Hội đồng định giá tài sản thành phố P kết luận: “01 điện thoại di động Iphone 14 Promax 256 GB màu vàng đen số IMEI 355216223037600, bên trong có chứa 01 sim viettel có dãy số 8984048000037766842 thời điểm ngày 04/01/2024 có giá 21.000.000 đồng” * Về trách nhiệm dân sự: Chị Lê Thị Hương N đã nhận lại toàn bộ tài sản bị chiếm đoạt và không có yêu cầu, đề nghị bồi thường dân sự.

* Tại Quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn số 01/QĐ-VKS-PL ngày 23/02/2024, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam truy tố Phạm Công M về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 174 Bộ luật Hình sự.

* Tại phiên tòa:

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý trình bày luận tội: Giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo như đã nêu trong Quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn, không thay đổi, bổ sung thêm tình tiết giảm nhẹ tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo. Sau khi phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử:

+ Tuyên bố bị cáo Phạm Công M phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

+ Áp dụng khoản 1 Điều 174; điểm h, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 50 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Phạm Công M từ 12 đến 15 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ. Phạt bổ sung là phạt tiền bị cáo từ 1.000.000đ đến 3.000.000đ sung ngân sách Nhà nước.

+ Về trách nhiệm dân sự: Chị Lê Thị Hương N không có yêu cầu, đề nghị bồi thường dân sự đối với bị cáo nên không xem xét.

+ Về xử lý vật chứng: Tịch thu sung ngân sách Nhà nước 01 điện thoại Iphone X màu trắng, số IMEI: 35484909188947, bên trong lắp sim Viettel có dãy số 8984048000909383366; Tịch thu tiêu hủy 01 túi nilon có chữ My clear bag; Trả lại bị cáo chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Airblade màu đen đeo biển kiểm soát số 33R5-09xx, số khung RLHJF 18018Y401776, số máy JF18E-5222807. Đối với một đơn xin giảm nhẹ hình phạt đề ngày 04/01/2024 có chữ ký của chị Lê Thị Hương N cần bàn giao lại cho Tòa án lưu giữ trong hồ sơ vụ án.

+ Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp theo quy định của pháp luật.

- Bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng như Quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt tù và xin miễn phạt tiền bổ sung.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Tòa án nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp. Việc áp dụng thủ tục rút gọn được các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện nghiêm theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Các chứng cứ đã thu thập trong hồ sơ là hợp pháp.

[2] Đối với người tham gia tố tụng là bị hại, người làm chứng và người chứng kiến vắng mặt tại phiên tòa nhưng trong hồ sơ vụ án đã có đầy đủ lời khai của họ, được cơ quan điều tra tiến hành lấy lời khai theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, nên Tòa án vẫn tiến hành xét xử theo quy định pháp luật.

[3] Về tội danh: Tại phiên tòa, bị cáo đã khai, thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đã nêu. Lời khai nhận của bị cáo được thẩm tra tại phiên tòa phù hợp với biên bản phạm tội quả tang, phù hợp với lời khai của bị hại, lời khai của người làm chứng, lời khai của người chứng kiến, phù hợp với vật chứng đã thu giữ và kết luận định giá tài sản của cơ quan chuyên môn, phù hợp với các tài liệu khác thu thập trong hồ sơ của vụ án. Hội đồng xét xử có đủ chứng cứ buộc tội kết luận: Với mục đích chiếm đoạt tài sản, ngày 04/01/2024 tại quán cà phê C thuộc tổ 5, phường L, thành phố P, Phạm Công M dùng thủ đoạn gian dối đã giới thiệu bản thân với chị Lê Thị Hương N tên là “C” đang công tác tại Công an tỉnh Hà Nam và tạo lòng tin hứa hẹn “Chạy án” cho chị N để chiếm đoạt số tiền 5.000.000đ và 01 điện thoại Iphone 14 Promax trị giá 21.000.000đ của chị N. Tổng giá trị tài sản M đã chiếm đoạt của chị N là 26.000.000đ (hai mươi sáu triệu đồng).

Hành vi nêu trên của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 174 Bộ luật Hình sự. Quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đối với bị cáo là đúng người, đúng tội, có căn cứ pháp luật.

[4] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Về nhân thân: Bị cáo là người có nhân thân xấu, có một tiền án về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học để rèn luyện, tu dưỡng bản thân mà tiếp tục phạm tội, thể hiện sự coi thường pháp luật.

Về tình tiết tăng nặng: Ngày 11/11/2022, bị cáo bị Tòa án nhân dân tỉnh Hà Nam xử phạt 06 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” nhưng chưa được xóa án tích nên lần phạm tội này bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng là “tái phạm” theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đều thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình; bị cáo phạm tội nhưng không gây thiệt hại; bị cáo có hoàn cảnh khó khăn và là lao động chính trong gia đình, có bà ngoại là Phạm Thị H được Nhà nước tặng thưởng bằng khen; có bác ruột là liệt sỹ Phạm Công V được Nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng ba, Huân chương chiến công giải phóng hạng ba, Huy chương chiến sĩ giải phóng, hiện mẹ đẻ bị cáo đang là người thờ cúng liệt sỹ. Vì vậy bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm h, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5] Về hình phạt:

- Hình phạt chính: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm lớn cho xã hội, thực hiên với lỗi cố ý trực tiếp; không những đã xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu về tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ mà còn gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự, an toàn xã hội tại địa phương, làm xã hội mất ổn định. Hành vi mà bị cáo thực hiện thể hiện rõ sự liều lĩnh, coi thường pháp luật trong khi thực hiện tội phạm, gây tư tưởng hoang mang, lo lắng và bức xúc trong dư luận quần chúng nhân dân. Vì vậy, việc xét xử nghiêm minh hành vi phạm tội này là cần thiết. Xét tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy cần thiết phải áp dụng hình phạt tù nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng cải tạo, giáo dục đối với bị cáo và nâng cao hiệu quả công cuộc đấu tranh, phòng chống tội phạm như đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ.

- Hình phạt bổ sung: Xét tính chất, mức độ phạm tội nên cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo, tuy nhiên cũng xem xét điều kiện cụ thể của bị cáo để ấn định mức phạt tiền cho phù hợp.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Chị Lê Thị Hương N không có yêu cầu đề nghị bồi thường dân sự nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Xử lý vật chứng:

- Đối với: Số tiền 5.000.000đ đựng trong phong bì và 01 điện thoại Iphone 14Promax, số IMEI1: 355216223037600, số IMEI2: 355216223252118, bên trong có chứa 01 sim viettel có dãy số 8984048000037766842 là tài sản hợp pháp của chị Lê Thị Hương N. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại cho chị Lê Thị Hương N là đúng pháp luật.

- Đối với 01 điện thoại Iphone X, màu trắng, số IMEI: 35484909188947, bên trong lắp sim Viettel có dãy số 8984048000909383366. Quá trình điều tra xác định là tài sản thuộc sở hữu của Phạm Công M, sử dụng làm công cụ để thực hiện hành vi phạm tội nên cần tịch thu sung ngân sách Nhà nước.

- Đối với 01 túi nilon có chữ My clear bag. Quá trình điều tra xác định là vật dụng của Phạm Công M, sử dụng làm công cụ để thực hiện hành vi phạm tội nhưng không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với một đơn xin giảm nhẹ hình phạt đề ngày 04/01/2024 có chữ ký của chị Nguyễn Thị Hương N cần bàn giao lại cho Tòa lưu giữ trong hồ sơ vụ án.

- Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Airblade màu đen đeo biển số 33R5- 09xx, số khung RLHJF 18018Y401776, số máy JF18E-5222807. Quá trình điều tra xác định là tài sản thuộc sở hữu của Phạm Công M, không liên quan đến hành vi phạm tội, cần trả lại cho Mạnh.

[8] Về tình tiết khác của vụ án:

Đối với Nguyễn Văn T là người đã chở Phạm Công M xuống thành phố P: Quá trình điều tra xác định Nguyễn Văn T không biết việc Phạm Công M lừa đảo chiếm đoạt tài sản của chị Lê Thị Hương N, do đó Nguyễn Văn T không đồng phạm với Phạm Công M về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại Điều 174 Bộ luật hình sự.

[9] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[10] Quyền kháng cáo: Bị cáo và bị hại thực hiện theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 174; điểm h, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 47; Điều 50 Bộ luật Hình sự.

Căn cứ các Điều 106, 136, 331, 333, 462, 463 Bộ luật Tố tụng Hình sự. Căn cứ Luật Phí và Lệ phí của Quốc hội.

Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố bị cáo Phạm Công M phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

2. Xử phạt bị cáo Phạm Công M 12 (mười hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 04/01/2024.

- Hình phạt bổ sung: Phạt bị cáo Phạm Công M 1.000.000đ (Một triệu đồng) sung ngân sách Nhà nước.

3. Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu sung ngân sách Nhà nước 01 điện thoại Iphone X màu trắng 64GB, số IMEI: 35484909188947, bên trong lắp sim Viettel có dãy số 8984048000909383366;

- Tịch thu tiêu hủy 01 túi nilon có chữ My clear bag;

- Trả lại bị cáo chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Airblade màu đen đeo biển kiểm soát số 33R5-09xx, số khung RLHJF 18018Y401776, số máy JF18E- 5222807.

- Bàn giao lại cho Tòa lưu giữ trong hồ sơ vụ án 01 (một) đơn xin giảm nhẹ hình phạt đề ngày 04/01/2024 có chữ ký của chị Lê Thị Hương N.

(Tình trạng, đặc điểm vật chứng như trong biên bản giao nhận vật chứng lập ngày 01/3/2024 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Phủ Lý với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Phủ Lý).

4. Về án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo Phạm Công M phải nộp: 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).

Án xử công khai sơ thẩm, bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

18
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 30/2024/HS-ST

Số hiệu:30/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phủ Lý - Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/03/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về