TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NHA TRANG, TỈNH KHÁNH HÒA
BẢN ÁN 273/2022/HS-ST NGÀY 23/08/2022 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
Ngày 23 tháng 8 năm 2022, Tòa án nhân dân thành phố N xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 281/2022/TLST-HS ngày 08 tháng 8 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 244/2022/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 8 năm 2022 đối với bị cáo:
Nguyễn Thị Mai L. Sinh năm 1984 tại K; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Đường X, phường V, thành phố N, tỉnh K; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Phật; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Đ (chết) và bà Nguyễn Thị Kim N (1964); có chồng là Mai Văn Đ (chết) và có 01 con, sinh năm 2002; tiền sự, tiền án: không; nhân thân:
+ Bản án số 33/2015/HSST ngày 11/02/2015 của Tòa án nhân dân thành phố N xử phạt 09 tháng tù, cho hưởng án treo. Thời giản thử thách 01 năm 6 tháng về tội “Trộm cắp tài sản”, đã thi hành xong phần án phí; bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Nguyễn Thị Mai L và Huỳnh Thị Thanh T quen biết nhau thông qua bạn bè. Khoảng tháng 9/2020, L biết được thông tin chồng chị T là Lê Xuân Th bị khởi tố về tội “Cố ý gây thương tích” và hiện đang bị áp dụng biện pháp tạm giam. Do cần tiền để tiêu dùng cá nhân nên Nguyễn Thị Mai L nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản của chị T bằng cách đưa ra thông tin gian dối là mình có thể giúp Lê Xuân Th được tại ngoại nên chị T đưa tiền cho L để lo việc này. Do tin tưởng Nguyễn Thị Mai L nên chị T đồng ý.
Từ tháng 9/2020 đến tháng 01/2021, chị Huỳnh Thị Thanh T nhiều lần trực tiếp đưa tiền cho Nguyễn Thị Mai L hoặc nhờ em gái là Huỳnh Thị Thanh Tr đưa tiền cho Nguyễn Thị Mai L để nhờ L giúp lo cho Lê Xuân Th tại ngoại. Cụ thể:
Tháng 9/2020, Nguyễn Thị Mai L nhận của Huỳnh Thị Thanh T số tiền 10.000.000đ.
Tháng 10/2020, Nguyễn Thị Mai L nhận của Huỳnh Thị Thanh T số tiền 100.000.000đ.
Tháng 11/2020, Nguyễn Thị Mai L nhận của Huỳnh Thị Thanh T số tiền 40.000.000đ.
Tháng 12/2020, Nguyễn Thị Mai L nhận của Huỳnh Thị Thanh T số tiền 20.000.000đ.
Tháng 01/2021, Nguyễn Thị Mai L nhận của Huỳnh Thị Thanh T số tiền 8.000.000đ.
Tổng số tiền Nguyễn Thị Mai L nhận của chị Huỳnh Thị Thanh T là 178.000.000đ.
Đến ngày 05/02/2021, chị Huỳnh Thị Thanh T không thấy Lê Xuân Th được tại ngoại như lời hứa của Nguyễn Thị Mai L nên đã đến Đội cảnh sát hình sự - Công an tp. N trình báo sự việc.
Qua truy xét, Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an tp. N đã đưa Nguyễn Thị Mai L về làm việc. Tại cơ quan cảnh sát điều tra - Công an Tp. N, Nguyễn Thị Mai L khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội nêu trên.
Tại bản cáo trạng số 04/CT-VKSNT ngày 24/12/2021, Viện kiểm sát nhân dân thành phố N đã truy tố bị cáo Nguyễn Thị Mai L về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm c khoản 2 Điều 174 của Bộ luật hình sự.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 77/2022/HSST ngày 17/3/2022 của Tòa án nhân dân thành phố N đã: Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 174; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo Nguyễn Thị Mai L. Xử phạt: bị cáo Nguyễn Thị Mai L 05 (năm) năm 6 (sáu) tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.
Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo Nguyễn Thị Mai L trả lại cho chị Huỳnh Thị Thanh T 178.000.000đ (Một trăm bảy mười tám triệu đồng).
Về án phí: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo Nguyễn Thị Mai L nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Bản án hình sự sơ thẩm số 77/2022/HSST ngày 17/3/2022 của Tòa án nhân dân thành phố N đã bị kháng cáo và kháng nghị.
Tại bản án hình sự phúc thẩm số 84/2022/HSPT ngày 23/7/2022, Tòa án nhân tỉnh K đã hủy một phần của bản án hình sự sơ thẩm về phần án phí dân sự sơ thẩm, và giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố N để xét xử lại theo đúng quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố N, tỉnh K phát biểu: Nội dung về án phí đã được Kiểm sát viên phát biểu trong phiên tòa sơ thẩm ngày 17/3/2022, nay vẫn giữ nguyên quan điểm như trước đây và không bổ sung gì thêm.
Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Thị Mai L trình bày bị cáo không có ý kiến gì đối với việc phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Do bản án bị hủy về phần án phí dân sự sơ thẩm, nên Tòa án nhân dân thành phố N khi xét xử lại không đưa bị hại và người làm chứng vào tham gia tố tụng, là đúng quy định của pháp luật.
[3] Xét về phần án phí dân sự sơ thẩm bị Tòa tòa án nhân dân tỉnh K hủy theo bản án hình sư phúc thẩm số 84/2022/HSPT ngày 23/7/2022.
Theo quy định tại tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 11, Điều 12, điểm c khoản 1 Điều 23, 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý, và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, thì bị cáo Nguyễn Thị Mai L thuộc trường hợp phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Tuy nhiên, tại Bản án hình sự sơ thẩm số 77/2022/HSST ngày 17/3/2022 của Tòa án nhân dân thành phố N khi tuyên buộc bị cáo phải bồi thường cho chị Huỳnh Thị Thanh Th số tiền 178.000.000.000 đồng, nhưng đã không tuyên buộc bị cáo phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với số tiền phải bồi thường là có thiếu sót. Vì vậy, Hội đồng xét xử buộc bị cáo phải chịu án phí dân sự sơ thầm theo quy định của pháp luật.
Số tiền án phí bị cáo phải chịu như sau: 178.000.000.000 đồng x 5% = 8.900.000 đồng (Tám triệu chín trăm nghìn đồng).
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Về án phí dân sự: Áp dụng khoản 2 Điều 135 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Bị cáo Nguyễn Thị Mai L phải chịu án phí dân sự sư sơ thẩm là 8.900.000 đồng (Tám triệu chín trăm nghìn đồng).
2. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 273/2022/HS-ST
Số hiệu: | 273/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Nha Trang - Khánh Hoà |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 23/08/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về