Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 214/2021/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 214/2021/HS-PT NGÀY 17/09/2021 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 17/9/2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 192/2021/TLPT-HS ngày 07/7/2021 đối với bị cáo Lê Xuân K. Do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 149/2021/HS-ST ngày 17/5/2021 của Toà án nhân dân Tp. Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.

* Bị cáo có kháng cáo:

Họ và tên: LÊ XUÂN K; Sinh ngày 29/4/1996, tại tỉnh Đắk Lắk; Nơi cư trú: Thôn 3, xã E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk; Nghề nghiệp: Lái xe; Trình độ học vấn: 11/12; Con ông Lê Hữu T và bà Đỗ Thị M; Tiền án: Không; Tiền sự: Không;

Nhân thân: Tại bản án số 55/2014/HSST ngày 11/11/2014, bị Tòa án nhân dân huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk xử phạt 02 năm 07 tháng 15 ngày tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Tại bản số 81/2015/HSPT ngày 17/3/2015, Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử phúc thẩm, xử phạt bị cáo 01 năm 06 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Ngày 10/3/2016, chấp hành xong hình phạt tù (đã được xóa án tích).

Hin bị cáo đang bị tạm giam trong một vụ án khác, có đơn xin xét xử vắng mặt.

* Người bị hại: Anh Nguyễn Văn V, sinh năm 1988, (vắng mặt). Địa chỉ: 57/9 đường P, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lê Xuân K là chủ sở hữu xe ô tô nhãn hiệu Toyota, số loại Innova, màu sơn bạc, biển số 47A-138.40. Tháng 11/2019, vì cần tiền tiêu xài và trả nợ nên Lê Xuân K đã mang chiếc xe ô tô Toyota Innova, biển số 47A-138.40 thế chấp cho Chu Anh D để vay tiền. Chu Anh D và K thỏa thuận với nhau: Duy cho K vay số tiền 170.000.000 đồng. Đồng thời, K và D lập hợp đồng mua bán chiếc xe Toyota Innova, làm thủ tục sang tên chủ sở hữu cho D; nếu K trả hết số tiền đã vay thì D sẽ làm thủ tục sang tên lại chiếc xe ôtô cho K, nếu K không trả tiền cho D thì D được bán chiếc xe. Đến tháng 3/2020, vì không có tiền trả cho D nên K đã nhờ Nguyễn Trọng D1 đến gặp D để chuộc lại chiếc xe trên. Nguyễn Trọng D1 và K thỏa thuận với nhau: D1 thay K trả cho D số tiền 180.000.000 đồng (gồm tiền nợ là 170.000.000 đồng và tiền D lắp đặt thiết bị định vị, tiền hồ sơ là 10.000.000 đồng). Hàng tháng, K sẽ trả tiền lãi cho D1, khi K trả số tiền gốc thì D1 sẽ sang tên lại chiếc xe ôtô cho K. Ngày 20/3/2020, D1 thay K trả cho D số tiền 180.000.000 đồng; D và D1 lập hợp đồng mua bán chiếc xe trên. Sau đó, K không trả tiền lãi cho D1 như đã thỏa thuận, vì không có tiền trả tiền gốc nên K nói D1 cứ bán xe đi. Khoảng tháng 4/2020, D1 cho Nguyễn Văn V mượn chiếc xe ôtô trên làm phương tiện đi lại. Do giữa K và V có mối quan hệ quen biết với nhau nên K biết việc D1 giao lại chiếc xe trên cho V quản lý, sử dụng. Đến đầu tháng 5/2020, vì cần tiền để trả nợ nên K nảy sinh ý định mượn chiếc xe ôtô nhãn hiệu Toyota Innova, biển số 47A- 138.40, mà anh V đang quản lý, sử dụng mang đi cầm cố vay tiền. K gọi điện thoại cho Huỳnh Văn T hỏi vay tiền bằng cách thế chấp lại xe ôtô biển số 47A-138.40. Vì không biết K đã bán lại chiếc xe trên cho người khác nên T đồng ý. Khoảng 20 giờ 30 phút ngày 04/5/2020, K cùng bạn gái là Nguyễn Nữ Đài T1 đến nhà của V tại địa chỉ: 57/9 đường P, phường T, thành phố B, Đắk Lắk hỏi V mượn chiếc xe ôtô nhãn hiệu Toyota Innova, biển số 47A-138.40, mà V đang quản lý, sử dụng. Lúc này, K nói dối V là mượn xe đi công việc, vài ngày sau sẽ trả lại cho V. V đồng ý cho K mượn xe và nói: “Khi nào anh cần xe thì mày phải mang xe về cho anh ngay”, K đồng ý. Sau đó, K điều khiển xe ôtô chở T1 về nhà tại huyện C, tỉnh Đắk Lắk. Đến tối ngày 05/5/2020, K và T hẹn gặp nhau tại quán cà phê gần chợ 19/8 thuộc huyện C. Tại đây, K vay T số tiền 50.000.000 đồng và cầm cố lại chiếc xe ôtô biển số 47A-138.40. Khoảng 03 ngày sau, K tiếp tục đến gặp T để vay thêm số tiền 30.000.000 đồng. Khoảng ngày 10/5/2020, V yêu cầu K mang xe về trả cho V. Do chưa có tiền để chuộc xe nên K nói dối là đang có việc chưa về kịp và hẹn khoảng 3-4 ngày sau sẽ trả xe cho V. Sau đó, V nhiều lần gọi điện thoại và đi tìm K để lấy lại xe nhưng không được. Đến ngày 25/5/2020, K vay tiền và chuộc chiếc xe ôtô trên từ T; sau đó nhờ Nguyễn Hồ D tìm người cầm cố chiếc xe để vay tiền trả nợ. D gọi điện thoại cho Lê Thiên V1 nhờ V1 cầm cố xe cho K vay số tiền 40.000.000 đồng thì V1 đồng ý. Để V1 tin tưởng, K đưa cho Văn xem hình ảnh của 01 giấy chứng nhận đăng ký xe ôtô biển số 47A-138.40 mang tên Lê Xuân K và nói: “Xe của em nhưng giấy tờ bố mẹ em đang giữ”, V1 đồng ý cho K vay số tiền 40.000.000 đồng và giữ lại chiếc xe ôtô nhãn hiệu Toyota Innova, biển số 47A-138.40.

Khi biết K mang xe ôtô đã mượn của mình đi cầm cố để vay tiền, V yêu cầu K phải chuộc chiếc xe ôtô trả lại cho V nhưng K hứa hẹn và vẫn không trả xe nên V viết đơn tố cáo hành vi của K. Khi biết chiếc xe là do K chiếm đoạt mà có, Lê Thiên V1 đã tự nguyện giao nộp cho Cơ quan điều tra;

Tại bản Kết luận định giá tài sản số 253/KLĐG ngày 12/11/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Buôn Ma Thuột xác định: Chiếc xe ôtô nhãn hiệu Toyota Innova, biển số 47A-138.40, màu sơn bạc, số máy: 1TR6619752; số khung RL4XW41G189051161, đăng ký lần đầu năm 2008, đã quan sử dụng (Xe chạy taxi và dịch vụ), trị giá 140.000.000 đồng;

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 149/2021/HS-ST ngày 17/5/2021 của Toà án nhân dân Tp. Buôn Ma Thuột đã quyết định:

- Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 174; điểm b, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS;

Tuyên bố: Bị cáo Lê Xuân K phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”;

Xử phạt bị cáo Lê Xuân K 03 (Ba) năm tù; Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án;

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, về trách nhiệm dân sự, về án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 01/6/2021, bị cáo Lê Xuân K kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Sau khi nhận được Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm, bị cáo Lê Xuân K có đơn xin xét xử vắng mặt và giữ nguyên nội dung đơn kháng cáo.

Quá trình tranh luận tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm c khoản 2 Điều 174 BLHS là có căn cứ, đúng người, đúng tội. Tuy nhiên, mức hình phạt 03 năm tù mà Tòa án cấp sơ thẩm xét xử đối với bị cáo là có phần nghiêm khắc. Bởi lẽ, bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS. Do đó, đề nghị HĐXX căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 BLTTHS - Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lê Xuân K, sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 149/2021/HS-ST ngày 17/5/2021 của Toà án nhân dân Tp. Buôn Ma Thuột về phần hình phạt đối với bị cáo. Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 174; điểm b, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS; Xử phạt bị cáo Lê Xuân K 02 năm 09 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Sau khi được Tòa án tống đạt hợp lệ Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm, bị cáo Lê Xuân K đã có đơn xin xét xử vắng mặt. Căn cứ Điều 351 BLTTHS, HĐXX xét xử vắng mặt bị cáo.

[2] Xét lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm là phù hợp với các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đã có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 20 giờ 30 phút ngày 04/5/2020, tại địa chỉ: 57/9 đường P, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk, Lê Xuân K đã dùng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt của anh Nguyễn Văn V 01 chiếc xe ô tô nhãn hiệu Toyota Innova, màu sơn bạc, biển số 47A-138.40, trị giá 140.000.000 đồng, sau đó mang đi cầm cố lấy tiền trả nợ và tiêu xài cá nhân thì bị anh V làm đơn tố cáo hành vi của K ra Cơ quan Công an. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Lê Xuân K về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm c khoản 2 Điều 174 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

[3] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo: Xét mức hình phạt 03 năm tù mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt đối với bị cáo là thoả đáng, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra. Bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác; bị cáo có nhân thân xấu, tại Bản án số 81/2015/HS- PT ngày 17/3/2015, Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã xử phạt bị cáo 01 năm 06 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”, bị cáo không lấy đó làm bài học kinh nghiệm mà tiếp tục phạm tội. Do vậy, cần áp dụng mức hình phạt nghiêm khắc mới đủ sức răng đe, giáo dục đối với bị cáo.

Cấp sơ thẩm đã xem xét, áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Tại cấp phúc thẩm, bị cáo không cung cấp thêm tình tiết giảm nhẹ nào mới. Nên HĐXX phúc thẩm không có căn cứ chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo.

[4] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[5] Về án phí hình sự phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

[1] Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng Hình sự.

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lê Xuân K – Giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 149/2021/HS-ST ngày 17/5/2021 của Toà án nhân dân Tp. Buôn Ma Thuột về hình phạt đối với bị cáo Lê Xuân K.

[2] Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 174; điểm b, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Lê Xuân K 03 (ba) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

[3] Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Lê Xuân K phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

791
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 214/2021/HS-PT

Số hiệu:214/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về