Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 201/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PLEIKU, TỈNH GIA LAI

BẢN ÁN 201/2023/HS-ST NGÀY 08/12/2023 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 08 tháng 12 năm 2023, tại Tòa án nhân dân thành phố P, tỉnh G xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 177/2023/HSST ngày 31 tháng 10 năm 2023. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xứ số: 202/2023/QĐXXST-HS, ngày 09 tháng 11 năm 2023 đối với bị cáo:

Họ tên: Nguyễn Quốc D, Tên gọi khác: Không.

Giới tính: Nam. Sinh ngày 17/7/1995, tại G. Nơi cư trú: Thôn 05, xã I, huyện D, tỉnh G.

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Thiên chúa giáo.

Trình độ học vấn: 10/12. Nghề nghiệp: Lao động tự do.

Con ông Nguyễn Ngọc N (đã chết) và con bà Từ Thị D1, sinh năm 1967. Hiện trú tại Thôn 05, xã I, huyện D, tỉnh G.

Có vợ: Nguyễn Thị Yến N, sinh năm 1998.

Bị cáo có 01 con sinh năm 2016. Vợ và con của bị cáo hiện trú tại số nhà 236 đường Huỳnh Thúc K, phường Y, thành phố P, tỉnh G.

Tiền sự, tiền án: Không.

Ngày 16/7/2015, bị Toà án nhân dân huyện Chư Prông, tỉnh G xét xử, tuyên phạt 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo; thời gian thử thách 01 năm, về tội: “Bắt người trái pháp luật”; tại Bản án số 26/HSST. Lần bị kết án này, Nguyễn Quốc D đã được xoá án tích.

Bị cáo Nguyễn Quốc D bị tạm giữ từ ngày 07/7/2023 đến ngày 16/7/2023, sau đó bị áp dụng biện pháp tạm giam cho đến nay. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố P, tỉnh G. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Những ngƣời tham gia tố tụng:

- Người bị hại: Anh Lữ Long D3.

Địa chỉ: Thôn P, xã I, huyện C, tỉnh G. Vắng mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Anh Nguyễn Thái T.

Địa chỉ: 125 Đinh Tiên H, TP.P, tỉnh G. Vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Quốc D và Lữ Long D3 có quen biết nhau. Vào khoảng 11 giờ ngày 07/7/2023, D3 điều khiển xe mô tô biển số 81B2-167.22 chở D đến quán nước giải khát ở số 135 đường Nguyễn Chí Thanh thuộc làng Khưn, phường Trà Bá, thành phố P uống nước. Khi vào quán nước, D3 lấy điện thoại di động hiệu Iphone XS màu vàng ra sử dụng; D nhìn thấy nên nảy sinh ý định chiếm đoạt chiếc điện thoại trên của D3, bán lấy tiền tiêu xài. Sau đó, D nói với D3: “Cho anh mượn điện thoại để anh gọi bạn”, D3 đồng ý. D lấy điện thoại của D3, rồi gọi cho Nguyễn Thái T, là bạn của D đến quán nước ở địa chỉ trên để chở D đi cầm cố điện thoại, T đồng ý. Gọi điện thoại cho T xong, D không trả điện thoại cho D3 mà cầm chơi. Khoảng 30 phút sau, T điều khiển xe mô tô hiệu Atila (chưa rõ biển số) đến đứng trước cửa quán nước nơi D và D3 đang ngồi. Thấy T đến, D cầm điện thoại đi ra khỏi quán nên D3 hỏi D:“Anh đi đâu đó”, D trả lời:“Anh đi rút tiền”, rồi lên xe T chở chạy về hướng đường Nguyễn Viết Xuân, phường Hội Phú, thành phố P. Thấy D cầm điện thoại bỏ chạy nên D3 điều khiển xe mô tô đuổi theo và yêu cầu D trả điện thoại nhưng D không trả. Khi đến trước cổng Công an phường Hội Phú, D3 ép xe của T vào lề đường và yêu cầu D vào Công an phường giải quyết. D xuống xe, còn T điều khiển xe mô tô đi về nhà. Qua báo cáo của anh Lữ Long D3, Công an phường Hội Phú giữ đối tượng Nguyễn Quốc D, rồi bàn giao cho Công an phường Trà Bá tiến hành giải quyết. Sau khi làm việc với D và D3, Công an phường Trà Bá lập biên bản tiếp nhận người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang đối với Nguyễn Quốc D và thu giữa 01 điện thoại di động hiệu Iphone XS. Cùng ngày, Công an phường Trà Bá chuyển vụ việc trên đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố P để điều tra theo thẩm quyền.

Qua định giá, xác định: Điện thoại di động hiệu Iphone XS, bị Nguyễn Quốc D chiếm đoạt ngày 07/7/2023 có trị giá 5.500.000 đồng (năm triệu năm trăm nghìn đồng). Sau khi định giá, Cơ quan điều tra đã xử lý trả lại điện thoại trên cho anh Lữ Long D3.

Về dân sự: Sau khi nhận lại điện thoại di động hiệu Iphone XS, bị Nguyễn Quốc D chiếm đoạt, bị hại Lữ Long D3 không yêu cầu bồi thường gì về dân sự.

Tại bản cáo trạng số: 196/CT-VKS ngày 30/10/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố P, tỉnh G truy tố bị cáo Nguyễn Quốc D về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1, Điều 174 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị:

- Áp dụng: khoản 1 Điều 174; Điều 38; Điều 50; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Nguyễn Quốc D từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

- Bị cáo phải chịu án phí hình sự, dân sự sơ thẩm theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Nguyễn Quốc D và anh Lữ Long D3 có mối quan hệ quen biết nhau. Vào khoảng 11 giờ ngày 07/7/2023, tại quán cà phê ở số 135 đường Nguyễn Chí Thanh, làng Khưn, phường Trà Bá, TP.P, D đã giả vờ hỏi mượn điện thoại di động hiệu Iphone XS, trị giá 5.500.000 đồng của anh D3 để gọi cho bạn, nhưng thực chất là chiếm đoạt bán lấy tiền tiêu xài. Sau đó, D gọi điện thoại cho Nguyễn Thái T và nhờ T đến chở D đi cầm cố điện thoại. Đến 13 giờ cùng ngày, thì D bị Công an phường Trà Bá bắt giữ và thu giữ vật chứng.

[2] Xét về hành vi tố tụng và các quyết định tố tụng trong quá trình điều tra truy tố: Trong quá trình điều tra truy tố, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân TP. P đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự; bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp và đúng quy định của pháp luật.

[3] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lơi khai cua người bị hại cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án . Việc truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố P, tỉnh G đối với bị cáo Nguyễn Quốc D phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[4] Xét hành vi của phạm tội của bị cáo Nguyễn Quốc D: Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, nhưng vì lười lao động chỉ muốn hưởng thụ trên thành quả lao động của người khác, khi thấy tài sản (điện thoại) của bạn là có ý định chiếm đoạt ngay, bên cạnh đó bị cáo có nhân thân xấu đã chấp hành án 01 bản án, tuy đã xóa án tích, nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học mà lại tiếp tục phạm tội.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội không những đã xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ mà còn làm ảnh hưởng đến tình hình trật tự tại địa phương, gây tâm lý hoang mang, lo lắng trong nhân dân, nên cần phải xử bị cáo một mức án nghiêm.

[5] Tuy nhiên xét quá trình điều tra và tại phiên toà hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo, dù giảm nhẹ nhưng cần phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để đảm bảo được biện pháp răn đe và phòng ngừa chung cho xã hội.

[6] Đối với anh Nguyễn Thái T là người đã chở bị cáo Nguyễn Quốc D đi cầm cố điện thoại. Quá trình điều tra xác định anh T chở D đi cầm cố điện thoại, thì anh T không biết đó là tài sản do D chiếm đoạt mà có nên không có căn cứ xử lý là đúng pháp luật.

[7] Về dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản không có yêu cầu gì, nên không xét.

[8] Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo phải chịu tiền án phí theo quy định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

 - Áp dụng: khoản 1 Điều 174; Điều 38; Điều 50; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Quốc D phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Quốc D 01 năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 07/7/2023.

- Căn cứ: khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Nguyễn Quốc D phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án bị cáo có quyền kháng cáo Bản án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh G xét xử phúc thẩm. Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại Ủy ban nơi cư trú.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

6
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 201/2023/HS-ST

Số hiệu:201/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Pleiku - Gia Lai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về