Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 19/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẢO LỘC, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 19/2023/HS-ST NGÀY 20/02/2023 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 20 tháng 02 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh L, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 03/2023/TLST-HS, ngày 06 tháng 01 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 14/2023/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 02 năm 2023, đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguvễn Văn L, tên gọi khác: Không, sinh ngày 10/6/1968, tại tỉnh T; nơi đăng ký thường trú và nơi cư trú: Ấp P, xã P, huyện T, tỉnh Đ; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh ; tôn giáo: Phật giáo; trình độ văn hóa (học vấn): 03/12; nghề nghiệp: Chạy xe ôm; con ông Nguyễn Văn N, sinh năm 1910 (đã chết) và bà Thái Thị L1, sinh năm 1930 (đã chết); có vợ: Đinh Thị P, sinh năm 1975, con: Không có; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn: Tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố B từ ngày 14/10/2022 cho đến nay. Có mặt.

- Bị hại:

Ông Nguyễn Tiến Q, sinh năm 1955; địa chỉ: Thôn I, xã Đ, thành phố B, tỉnh L. Vắng mặt.

- Người làm chứng: Anh Nguyễn Tấn Đ, sinh năm 2004; địa chỉ: Số B T, phường L, Tp ., tỉnh L. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và din biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 13 giờ 00 phút ngày 11/6/2022, tại trước số nhà B đường T, phường L, thành phố B, tỉnh L xảy ra vụ va chạm giao thông giữa xe mô tô biển số 49K1-xxxxx do ông Nguyễn Tiến Q, sinh năm 1955, nơi cư trú: thôn I, xã Đ, thành phố B điều khiển với xe mô tô biển số 49K1- xxxxx do cháu Nguyễn Tấn Đ, sinh năm 2004, nơi cư trú: số B đường T, phường L, thành phố B điều khiển. Hậu quả: ông Q và cháu Đ bị thương tích nhẹ. Lúc này, Nguyễn Văn L điều khiển xe mô tô biển số 52N4-xxxxx đi qua nhìn thấy sự việc trên thì tự nhận là người nhà của ông Q và đứng ra thỏa thuận giải quyết với cháu Đ. Nguyễn Văn L nói với cháu Đ: “Chú là em trai người bị tai nạn giao thông, bây giờ chú chở ông anh đến Trạm y tế phường L, Tp. để sơ cứu vết thương, còn hai xe mô tô cháu cứ dắt sang tiệm sửa xe, tý chú đến nói chuyện”. Sau đó, L điều khiển xe mô tô biển số 52N4-xxxxx của mình chở ông Q đến Trạm y tế phường L, Tp . để sơ cứu vết thương. Còn cháu Đ lần lượt dắt 02 xe mô tô đến tiệm sửa xe “T”, địa chỉ: Số B đường T, phường L, thành phố B. Tại đây, cháu Đ gặp anh Đỗ Hồ Ngọc B, sinh năm 2001, nơi cư trú: tổ A, thị trấn L, huyện B (là thợ sửa xe) và nhờ anh B kiểm tra tình trạng xe hư hỏng và báo giá trị thiệt hại của xe mô tô biển số 49K1-xxxxx. Sau đó, cháu Đ gọi điện thoại cho anh trai tên Nguyễn Tấn Đ1, sinh năm 1999 để nhờ Đ1 đến tiệm sửa xe “T” để thỏa thuận giải quyết vụ tai nạn giao thông. Lúc này tại trạm y tế phường L, Tp L thấy ông Q có biểu hiện say rượu và đang được sơ cứu vết thương nên L nảy sinh ý định chiếm đoạt chiếc xe mô tô biển số 49K1-xxxxx của ông Q để làm phương tiện đi lại. Thực hiện ý định trên, L đi đến tiệm sửa xe “T” gặp cháu Đ và tự thỏa thuận về vấn đề bồi thường thiệt hại đối với xe của Đ. Sau khi thỏa thuận xong, L đưa cho Đ1 và Đại số tiền 130.000 đồng. Sau đó, Lai dắt xe mô tô 49K1-xxxxx của ông Q đi đến Trạm y tế phường L, Tp . để cất giấu rồi đến gặp và nói dối ông Q về việc xe mô tô của ông Q đang bị Công an tạm giữ. Nghe xong, ông Q nhờ L chở ông Q về nhà tại thôn I, xã Đ, thành phố B lấy giấy tờ xe để lên Công an nhận lại xe, ông Q tin là thật nên đưa chìa khóa xe mô tô 49K1-xxxxx của mình cho L. Sau đó, L điều khiển xe mô tô biển số 52N4-xxxxx của mình chở ông Q về nhà ông Q tại xã Đ, Tp . để lấy giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô. Khi L chở ông Q đi đến đoạn đường tránh thuộc phường B, thành phố B thì xe bị hết xăng nên L để ông Q lại và dắt xe đi đổ xăng. Sau khi đổ xăng xong thì L không quay lại đón ông Q mà nhanh chóng điều khiển xe về nhà nghỉ “Đ” (nơi L đang thuê phòng để ở), địa chỉ: số D đường T, phường L, thành phố B để cất xe mô tô của mình. Sau đó, L đến trạm y tế phường L, Tp . và điều khiển xe mô tô của ông Q đến cây xăng “N”, địa chỉ: Ấp P, xã P, huyện T, tỉnh Đ và gặp ông Trương Ql, sinh năm 1969, nơi cư trú: Ấp P, xã P, huyện T, tỉnh Đ để gửi nhờ chiếc xe đã chiếm đoạt của ông Q (trên đường đi thì biên số xe bị rơi mất). Sau đó L đón xe khách quay lại nhà nghỉ “Đ”. Đến ngày 15/6/2022, Cơ quan Công an triệu tập Nguyễn Văn L lên làm việc, đồng thời tạm giữ chiếc xe mô tô nói trên.

Tại Kết luận định giá số 81/KL- HĐĐGTS ngày 08/8/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố B kết luận: xe mô tô biển số 49K1 - xxxxx có giá trị tại thời điểm định giá là 19.000.000 đồng.

Bản Cáo trạng số 20/CT-VKSBL, ngày 03 tháng 01 năm 2023, Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, tỉnh L truy tố bị cáo Nguyễn Văn L về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 174 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa: Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, tỉnh L giữ nguyên Cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn L phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Áp dụng khoản 1 Điều 174; Điều 38; điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn L từ 09 tháng đến 12 tháng tù.

* Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và căn cứ Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Quá trình điều tra, cơ quan Công an thành phố B, tỉnh L đã thu giữ và trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp là ông Nguyễn Tiến Q 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Ware RSX F1 biển số 49K1 - xxxxx nên không xem xét.

* Về bồi thường thiệt hại: Áp dụng Điều 48 Bộ luật hình sự.

Quá trình điều tra, bị hại ông Nguyễn Tiến Q đã nhận lại tài sản không yêu cầu bồi thường gì thêm về dân sự nên không xem xét.

Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

+ Bị cáo khai nhận đã thực hiện hành vi phạm tội đúng như Cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố, luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến gì về bản Cáo trạng và không có tranh luận, đối đáp gì với Kiểm sát viên.

+ Bị cáo nói lời sau cùng: Nhận thức được hành vi phạm tội là vi phạm pháp luật hình sự, sai trái, đề nghị HĐXX xem xét xử phạt mức hình phạt nhẹ nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố B, tỉnh L, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, tỉnh L, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại và người tham gia tố tụng khác không người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Hành vi cấu thành tội phạm: Hội đồng xét xử nhận thấy, tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Văn L đã khai và thừa nhận hành vi phạm tội phù hợp với lời khai trong quá trình điều tra; nội dung bản Cáo trạng đã truy tố; luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa; nội dung bản Kết luận điều tra; kết luật của Hội đồng định giá; lời khai của bị hại; lời khai của những người tham gia tố tụng khác và các tài liệu, chứng cứ chứng minh đã được thu thập theo đúng trình tự, thủ tục do Bộ luật Tố tụng hình sự quy định và đã được kiểm tra tại phiên tòa.

Như vậy, có đủ căn cứ kết luận: Vào ngày 11/6/2022, tại khu vực đường T, phường L, thành phố B, lợi dụng có vụ tai nạn giao thông đã xảy ra giữa ông Nguyễn Tiến Q và anh Nguyễn Tấn Đ, Nguyễn Văn L đã dùng thủ đoạn gian dối là giả làm người nhà của ông Nguyễn Tiến Q để đứng ra thỏa thuận giải quyết bồi thường vụ tai nạn giao thông với anh Nguyễn Tấn Đ nhằm tiếp cận và tạm giữ xe mô tô biển số 49K1-xxxxx của ông Q. Sau đó L tiếp tục dùng thủ đoạn gian dối để nói với ông Q là xe mô tô đang bị cơ quan Công an tạm giữ làm cho ông Q tin tưởng là thật và giao chìa khóa xe cho Q để chiếm đoạt xe mô tô nhãn hiệu Honda Ware RSX F1, biển số 49K1-xxxxx, có giá trị là 19.000.000đ (mười chín triệu đồng), mục đích nhằm để làm phương tiện sử dụng cho bản thân.

Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 174 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, tỉnh L truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Tính chất và mức độ của tội phạm: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến khách thể là quyền sở hữu về tài sản của cá nhân được pháp luật bảo vệ. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, lợi dụng có vụ tai nạn giao thông đã xảy ra, lúc đầu bị cáo đã có hành vi tốt giúp đỡ người bị tai nạn giao thông đi cấp cứu; do có lòng tham nên đã dùng thủ đoạn gian dối để cho ông Nguyễn Tiến Q tin là thật nhằm giao chìa khóa xe để chiếm đoạt chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Ware RSX F1, biển số 49K1-xxxxx , có giá trị 19.000.000đ, hành vi này bị pháp luật nghiêm cấm, nhưng với thái độ xem thường pháp luật nên bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội đến cùng. Bị cáo thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng, gây mất trật tự, an toàn xã hội. Vì vậy, cần phải xử lý nghiêm để răn đe, giáo dục và phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; tài sản đã được thu hồi trả lại cho bị hại. Vì vậy, cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

[6] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[7] Căn cứ vào quy định của Bộ luật Hình sự, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự. Hội đồng xét xử thấy, cần cách ly khỏi xã hội, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù tại cơ sở giam giữ trong một thời hạn nhất định, tương xứng với hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra.

[8] Về xử lý vật chứng: Quá trình điều tra, cơ quan Công an thành phố B, tỉnh L đã thu giữ và trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp là ông Nguyễn Tiến Q 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Ware RSX F1 biển số 49K1 - xxxxx nên không xem xét.

[9] Về bồi thường thiệt hại: Quá trình điều tra, bị hại ông Nguyễn Tiến Q đã nhận lại tài sản không yêu cầu bồi thường gì thêm về dân sự nên không xem xét.

[10] Các vấn đề khác: Đối với ông Trương Q1 là người nhận giữ hộ xe mô tô nhãn hiệu Honda Ware RSX F1 biển số 49K1 - xxxxx do Nguyễn Văn L phạm tội mà có. Tuy nhiên, ông Q1 không biết chiếc xe trên do L phạm tội mà có nên không xem xét trách nhiệm hình sự.

[11] Xét ý kiến trình bày luận tội và quan điểm giải quyết vụ án của Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, tỉnh L phù hợp với các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án, đã được kiểm tra tại phiên tòa là có căn cứ chấp nhận.

[12] Về chi phí tố tụng: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn L phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 174; Điều 38 và điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn L 18 (mười tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù, tính từ ngày 14/10/2022.

2. Về án phí: Căn cứ Điều 135 Bộ luật tố tụng hình sựNghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về ...án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Nguyễn Văn L phải chịu 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

3. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh L xét xử phúc thẩm. Bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

4
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 19/2023/HS-ST

Số hiệu:19/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bảo Lộc - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/02/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về