TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN H, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 184/2023/HS-ST NGÀY 31/07/2023 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
Trong ngày 31 tháng 7 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận H xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 180/2023/TLST-HS ngày 31 tháng 5 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 153/2023/QĐXXST-HS ngày 07/7/2023, đối với bị cáo:
Họ và tên: Trần Thị T, Sinh năm 1961; giới tính: Nữ; HKTT: số 20/177 HY, phường Q, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo, đảng phái: Không. Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóá: 07/10; Con ông Trần Ngọc H (Đã chết) và bà Trần Thị Sỉu (Đã chết). Anh, chị, em ruột: có 06 chị em, bị cáo là thứ tư; Chồng: Nguyễn Văn H (Đã chết); Con: có 02 con, lớn sinh năm 1989, nhỏ sinh năm 2003. Danh, chỉ bản số 321 lập ngày 6/4/2023 tại Công an quận H.
- Tiền án, tiền sự: Không.
* Nhân thân:
1. Bản án số 116 ngày 24/7/1993 của Tòa án nhân dân thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định xử phạt 06 tháng tù về tội Dẫn dắt mại dâm.
2. Bản án số 154/2013/HSST ngày 26/4/2013 bị Tòa án nhân dân quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội xử phạt 60 tháng tù về tội Chứa mại dâm, 05 tháng tù về tội Đánh bạc, tổng hợp hình phạt 65 tháng tù về tội Chứa chấp mại dâm. Ra trại ngày 31/8/2015.
3. Bản án số 67/2018/HSST ngày 12/11/2018 của Tòa án nhân dân huyện An Dương, thành phố Hải Phòng xử phạt 18 tháng tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Ra trại ngày 12/01/2020.
Bị cáo đầu thú, tạm giữ, tạm giam từ ngày 28/3/2023 hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 2- Công an thành phố Hà Nội. (Bị cáo có mặt tại phiên tòa).
- Người bị hại: Bà Hoàng Thị L, Sinh năm: 1963; Trú tại: Số 157 L, phường H, quận H, thành phố Hà Nội (Vắng mặt tại phiên tòa).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Do cần tiền chi tiêu cá nhân nên Trần Thị T (Sinh năm: 1961, trú tại: số 20/177 HY, phường Q, thành phố N, tỉnh Nam Định) cùng Trần Thị Phương L (Sinh năm: 1977 Trú tại: phường T, thành phố N, tỉnh Nam Định) và Nguyễn Thị H (T khai Sinh năm: 1986 trú tại, khu 3 tầng, phường T, thành phố N, tỉnh Nam Định) rủ nhau đi lừa đảo bán thảo dược cho những người cao tuổi lấy tiền chi tiêu cá nhân. Cụ thể T, L và H bàn với nhau sẽ đi mua hạt Ý Dĩ, nói dối người mua là hạt Thạch Thảo có công dụng chữa nhiều loại bệnh như: đau xương khớp, mất ngủ… rồi bán giá tiền cao. Tùy thuộc vào từng người mua nói bị bệnh gì thì nhóm của T sẽ nói hạt thạch thảo có công dụng chữa được loại bệnh đó. Để cho nạn nhân tin tưởng thì T, L và H đã thống nhất: Phương L sẽ đóng giả là bác sĩ ở Bệnh viện Quân y 103; Hà sẽ đóng giả là bác sĩ tham gia hội thảo và có thảo dược để bán, còn T sẽ đóng giả là người đã mua thảo dược và đã sử dụng thảo dược này cho công dụng tốt để nạn nhân đồng ý mua thảo dược.
Khoảng 20 giờ ngày 26/3/2023, Phương L gọi điện thoại từ số 0877.220.xxx đến số điện thoại 0827.909.1xxx của T hẹn T đến đầu đường GP để đi lừa đảo chiếm đoạt tiền của người khác bằng thủ đoạn trên, T đồng ý.
Đến khoảng 07 giờ 00 phút ngày 27/3/2022 thì T một mình điều khiển xe Honda Lead màu tím mang BKS: 18P2-73xxx đi đến chỗ hẹn. Khi T đến nơi thì thấy Phương L điều khiển xe Honda Wave màu đen, H điều khiển xe Honda Wave màu bạc đang đợi T. Sau đó L và Hà rủ T đến khu vực phường HC, H để tìm người mua hàng. T đồng ý và đi xe máy theo Phương L và Hà. Đến khoảng gần 08 giờ 00 phút cùng ngày, T, Phương L và H đi đến đoạn đường Lê Hồng Phong thuộc phường HC, H thì thấy bà Hoàng Thị L (Sinh năm: 1963; Trú tại: Số 157 Lê Hồng Phong, phường HC, H, Hà Nội) đang đi xe đạp một mình nên T, Phương L và Hà đã nảy sinh ý định lừa đảo chiếm đoạt tài sản của bà L.
Thực hiện ý định trên, Phương L đi xe máy lên phía trước và nói với bà L: “Nhìn cô đạp xe, cái chân viêm khớp giống y như mẹ chồng cháu ý”, bà L đáp: “Cô không bị xương khớp nhưng bị mất ngủ hai năm nay rồi”. Phương L nói tiếp: “Cháu giới thiệu cho cô mua tinh chất hạt thạch thảo để uống chữa khỏi xương khớp và mất ngủ, mẹ cháu uống một liệu trình 15 ngày là khỏi hẳn”. Thấy Phương L nói vậy thì bà L dừng xe lại ở đoạn đường LHP đối diện với sân bóng HC để nói chuyện với Phương L.
Lúc này T đi đến sau và và nói“Vừa nghe thấy ai nói tinh chất hạt Thạch Thảo chữa được bệnh mất ngủ đấy, mẹ chồng chị đã dùng rồi, đã khỏi, tốt lắm, em mách dùm chị với”. T vừa nói xong thì Phương L giới thiệu với T và bà L mình là bác sĩ Trần Mai H, công tác tại Bệnh viện Quân y 103 vừa tham dự hội thảo, đang tư vấn cho bà L dùng tinh chất hạt thạch thảo để chữa bệnh mất ngủ. Phương L nói với T và bà L nếu muốn mua tinh chất hạt thạch thảo thì đến hội thảo mua rồi chỉ tay về hướng khu TRUNG Tâm thương mại Metro H. T giả vờ nói: “Chị vừa đến chỗ hội thảo nhưng người ta không cho vào vì không có thẻ”. Phương L lúc này nói: “Em có thẻ, để em nhận hai bác là người nhà để giúp hộ hai bác”. Thấy Phương L và T nói vậy thì bà L tin tưởng và nhờ Phương L mua giúp tinh chất hạt thạch thảo. Phương L đồng ý và giả vờ dặn bà L: “Khi đến nếu nhân viên có hỏi thì nói là người nhà bác sĩ Trần Mai H”. Sau đó, T bảo bà L gửi xe đạp vào khu sân bóng CĐ rồi T chở bà L đi về hướng Metro H.
Quá trình này, Hà không vào nói chuyện với Phương L, T và bà L mà điều khiển xe máy đi ra khu vực Metro H trước, Phương L điều khiển xe máy đi theo sau cách Hà một đoạn, còn T thì chở bà L đi theo sau xe của Phương L. Trên đường chở bà L đi thì T tiếp tục trò chuyện với bà L, dặn bà L cố gắng nhờ bác sĩ Trần Mai H giúp. Khi Phương L đi đến khu vực phố Cầu Đơ ở ngay trước cổng nghĩa trang Cầu Đơ thì Phương L gọi H dừng lại. Lúc này T đèo bà L cùng đi đến và cũng dừng lại theo. Tại đây Phương L giả vờ nói với H: “Bác sĩ ơi, vào trong hội thảo thì cũng phải gặp em, có hai người nhà ở đây, bác sĩ giúp hộ người nhà của em mua hạt thạch thảo”. Rồi Phương L quay lại giả vờ giới thiệu với T và bà L rằng H là bác sĩ vừa tham dự hội thảo. Sau đó Hà nói: “Hạt thạch thảo thì em mang ở đây, bây giờ đã hết hội thảo, 50 ngày nữa thì mới có hội thảo”. Thấy H nói vậy thì Phương L nói thì với H: “Thôi chị để lại cho người nhà của em, mỗi chị em một liều, các chị ấy đã bị mất ngủ lâu rồi”. Để cho bà L tin tưởng thì T nói thêm vào “Nhờ bác sĩ giúp”. Sau đó Hà nói: “Đây là người nhà bác sĩ Mai Hương thì mới giúp hộ, để lại mỗi người một liều giá 35 triệu đồng”. Rồi Hà lấy ra 02 hộp thuốc màu trắng có dòng chữ “TRUNG TÂM CHĂM SÓC SỨC KHỎE TOÀN CẦU BỘ Y TẾ THẾ GIỚI” (trong mỗi hộp này có 04 gói ni lông chứa hạt Ý DĨ, nhưng Hà nói dối là hạt thạch thảo), 01 hộp thì H đưa cho T, hộp còn lại thì Hà đưa cho bà L. Sau đó Hà hỏi T và bà L có tiền trả cho H hay không. T lúc này nói với H có tiền trả, nhưng bà L nói là không mang theo tiền. Thấy bà L nói vậy thì Phương L nói với bà L: “Chị nhờ chị này giúp hộ rồi về nhà lấy tiền trả cho chị ấy”. Bà L tin tưởng và nói với T: “Chị có tiền trả giúp hộ rồi tôi về nhà lấy tiền trả”, T giả vờ đồng ý rồi lấy ra một ít tiền đếm và trả cho H. Sau đó T cầm 01 hộp để vào trong cốp xe, còn bà L cầm 01 hộp bảo T treo vào xe rồi T chở bà L về nhà lấy tiền trả T, bà L sẽ lấy hộp thuốc này sau.
Sau đó T chở bà L về nhà bà L ở địa chỉ số 157 LHP , phường HC, quận H và đợi ở ngay trước cửa nhà bà L, còn H và Phương L cũng đợi cách T một đoạn, lúc này khoảng 08 giờ cùng ngày bà L đi ra và đưa T số tiền là 3.500.000 đồng (gồm 07 tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng), T cầm số tiền trên rồi nói số tiền mà bà L phải trả là 35.000.000 đồng. T đưa hộp thuốc cho bà L và nói:“Chị vào cất hộp thuốc đi và lấy nốt tiền trả cho em rồi em đèo chị đi lấy xe”. Bà L đồng ý, cầm hộp thuốc trên và đi vào nhà. Một lúc sau thì con trai bà L là anh Lưu Văn H2 (Sinh năm: 1990) phát hiện việc bà L bị lừa và cùng bà L đi ra. Anh H2 nói: “Ai vừa bán thuốc cho mẹ tôi”, thấy vậy thì T nổ máy xe bỏ đi nhưng đã bị anh H2 đuổi theo giữ lại còn Phương L và Hà phóng xe đi mất.
Sau đó H2 cùng mọi người đã đưa T đến công an phường HC làm việc. Tại đây, bà Hoàng Thị L có đơn tố giác T lừa đảo chiếm đoạt tài sản, Trần Thị T đã có đơn xin đầu thú khai nhận toàn bộ hành vi nêu trên.
* Vật chứng của vụ án - Tạm giữ của Trần Thị T: Số tiền 3.500.000 đồng tiền ngân hàng nhà nước Việt Nam đang lưu hành; 01 (một) xe máy Honda Lead, BKS: 18P2-73xxx, số khung 10471001631, số máy 07B-00863, màu sơn tím; 01 (một) hộp giấy màu trắng bên trên vỏ có in chữ “TRUNG Tâm chăm sóc sức khỏe toàn cầu Bộ Y tế Thế giới (+)” màu đỏ, bên trong hộp có 04 túi nilong chứa các hạt màu trắng và 01 (một) giấy bìa màu vàng, kích thước (12x14)cm, trên giấy có ghi công dụng tinh chất thạch thảo; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105 màu đen, bên trong lắp sim số 0827.909.1xxx.
- Tạm giữ của bà Hoàng Thị L: 01 (một) hộp giấy màu trắng bên trên có in chữ “TRUNG Tâmâm chăm sóc sức khỏe toàn cầu Bộ Y tế Thế giới (+)” màu đỏ, bên trong hộp có 04 túi nilong chứa các hạt màu trắng và 01 (một) giấy bìa màu vàng, kích thước (12x14) cm, trên giấy có ghi công dụng tinh chất thạch thảo.
Ngày 28/3/2023, cơ quan điều tra có văn bản số 761 gửi Hội Đông y Hà Nội xác minh về dược liệu mang tên “hạt thạch thảo” và loại hạt thu giữ của Trần Thị T là loại dược liệu gì? Qua làm việc, xác định: “Các hạt màu trắng đục được đóng gói vào hộp giấy có dòng chữ “TRUNG TÂM CHĂM SÓC SỨC KHỎE TOÀN CẦU BỘ Y TẾ THẾ GIỚI” mà cơ quan điều tra gửi đến là hạt ý dĩ (hạt ý dĩ có giá trên thị trường từ 60.000 đồng đến 80.000 đồng/1 kg)…Không có dược liệu nào mang tên “Hạt thạch thảo” trong danh sách dược liệu.” Ngày 29/3/2023, cơ quan CSĐT Công an quận H ra Quyết định trưng cầu giám định số 211/QĐ-CQĐT(ĐTTH) ngày 29/3/2023 đối với 08 túi nilông đã thu giữ nêu trên. Tại Bản kết luận giám định số 2277/KL-KTHS ngày 17/5/2023 của Viện Khoa học hình sự Bộ Công an đã kết luận: “Mẫu hạt thực vật gửi giám định đều là hạt của cây Ý dĩ (bo bo, dĩ mễ, cườm thảo, cườm gạo, dĩ nhân) có tên khoa học là: Coix lachrymal-jobi L. thuộc họ Lúa. Họ Lúa có tên khoa học là Poaceae.” Ngày 22/5/2023, Cơ quan CSĐT Công an quận H ra yêu cầu định giá tài sản đối với 04 túi nilong bên trong có các hạt Ý Dĩ, khối lượng 0,6 kg. Tại bản kết luận định giá số 123/Kl-HĐĐGTS ngày 24/5/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự UBND quận H, kết luận: “Giá trị tài sản 04 (bốn) túi nilong trong có các hạt Ý dĩ khối lượng 0,6 kg, trị giá 42.000 đồng”.
Cơ quan điều tra đã xác minh tại Bệnh viện Quân y 103 về việc bệnh viện có bác sĩ, nhân viên nào tên Trần Mai H hay không? Tại văn bản số 1126/BVQY103-Ct ngày 12/4/2023 của Bệnh viện Quân y 103, trả lời: “Trong danh sách cán bộ, nhân viên của Bệnh viện không có ai mang tên Trần Mai H”.
Đối với số tiền 3.500.000 đồng đã thu giữ của Trần Thị T là số tiền T đã chiếm đoạt của bà Hoàng Thị L. Ngày 29/3/2023, cơ quan điều tra đã ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại chủ sở hữu là bà Hoàng Thị L, bà L đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu, đề nghị gì khác.
Tại Cáo trạng số 176/CT-VKS-HĐ ngày 31 tháng 7 năm 2023, của Viện kiểm sát nhân dân quận H truy tố Trần Thị T về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình;
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận H duy trì quyền công tố: Sau khi đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo đã giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Đề nghị HĐXX áp dụng khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự; điểm s khoản 1, khoản 2, Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo từ 15 đến 18 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày bắt tạm giữ, tạm giam 28/3/2023.
Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra cơ quan điều tra đã thu giữ số tiền 3.500.000 đồng của Trần Thị T là số tiền T đã chiếm đoạt của bà Hoàng Thị L. Ngày 29/3/2023, cơ quan điều tra đã ra Quyết định trả lại chủ sở hữu là bà Hoàng Thị L, bà L đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu, đề nghị gì khác, nên không xem xét.
Về tang vật của vụ án: Đề nghị áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 47 Bộ luật hình sự: Tịch thu phát mại sung quỹ nhà nước 01 điện thoại Nokia 105 màu đen, lắp sim số 0827909122; Tịch thu tiêu hủy 02 hộp thuốc màu trắng có dòng chữ “TRUNG TÂM CHĂM SÓC SỨC KHỎE TOÀN CẦU BỘ Y TẾ THẾ GIỚI” bên trong chứa 08 túi ni lông chứa các hạt màu trắng; Đối với 01 xe máy Honda Lead BKS 18P2-73xxx bị cáo sử dụng vào việc phạm tội nên đề nghị áp dụng Điều 228 Bộ luật dân sự: Sau 01 (một) năm kể từ ngày đăng báo công khai không xác định được chủ sở hữu hợp pháp thì yêu cầu cơ quan thi hành án tịch thu phát mại sung quỹ Nhà nước.
Lời nói sau cùng bị cáo ăn năn hối cải, đề nghị HĐXX xem xét giảm hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về tố tụng:
Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên Cơ quan điều tra Công an quận H, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân quận H trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người tham gia tố tụng khác, không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi hoặc quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
Về việc vắng mặt người bị hại, trong vụ án: Tại phiên tòa, vắng mặt người bị hại đã được triệu tập hợp lệ. Xét bị hại đã có lời khai đầy đủ trong hồ sơ vụ án, không yêu cầu bồi thường gì khác về dân sự, do đó việc vắng mặt họ không làm ảnh hưởng đến việc xét xử vụ án. Hội đồng xét xử tiến hành xét xử theo quy định tại các điều 292 Bộ luật tố tụng hình sự.
[2]. Về nội dung vụ án: Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp các tài liệu khác được thu thập có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có cơ sở kết luận: Khoảng 08 giờ 00 phút ngày 27/3/2023, tại khu vực đường Lê Hồng Phong thuộc phường Hà Cầu, quận H, thành phố Hà Nội, Trần Thị T cùng hai đối tượng đã có hành vi sử dụng thủ đoạn gian dối khiến bà Hoàng Thị L tin tưởng để lừa bán 04 (bốn) túi nilong bên trong có các hạt Ý Dĩ khối lượng 0,6 kg, trị giá 42.000 đồng (giả làm hạt thạch thảo) với giá 35.000.000 đồng. Bà L đã đưa số tiền 3.500.000 đồng cho T, nhưng chưa đưa số tiền còn lại, thì bị phát hiện, bắt giữ cùng vật chứng. Giá trị tài sản bị cáo chiếm đoạt của bị hại là 3.500.000 đồng… Hành vi nêu trên của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản được quy định trong Bộ luật hình sự. Do đó Viện kiểm sát nhân dân quận H giữ nguyên Cáo trạng truy tố bị cáo về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản được quy định tại khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.
[3]. Về tính chất vụ án, hình phạt và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội gây mất trật tự tại địa phương, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác. Bị cáo là người đã trưởng thành, có nhận thức và khả năng làm chủ bản thân, bị cáo nhận thức được hành vi của mình là trái pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện; Bản thân bị cáo đã từng bị xử 3 lần, đã từng phạm cùng tội Lừa đảo. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết phải áp dụng hình phạt tù nghiêm, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo đồng thời để răn đe, phòng ngừa chung.
Khi lượng hình, Hội đồng xét xử có xem xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và xét xử thành khẩn khai báo, có đơn đầu thú, ăn năn hối cải, tài sản chiếm đoạt đã thu giữ và trả lại cho bị hại, bị hại không có yêu cầu gì khác; bị cáo hoàn cảnh gia đình khó khăn, một mình nuôi các con ăn học do đó xem xét cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s, khoản 1, Điều 51 Bộ luật hình sự, giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo yên T cải tạo.
[4]. Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt, không yêu cầu bị cáo bồi thường gì khác, nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[5]. Về vật chứng của vụ án đã bàn giao cho Chi cục Thi hành án dân sự quận H:
02 hộp thuốc màu trắng có dòng chữ “TRUNG TÂM CHĂM SÓC SỨC KHỎE TOÀN CẦU BỘ Y TẾ THẾ GIỚI” bên trong chứa 08 túi ni lông chứa các hạt màu trắng, là tang vật vụ án không có giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy;
+ 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105 màu đen, bên trong lắp sim số 0827.909.1xxx, bị cáo sử dụng vào việc phạm tội nên tịch thu phát mại sung quỹ Nhà nước.
+ 01 (một) xe máy Honda Lead, BKS: 18P2-73xxx, số khung 10471001631, số máy 07B-00863, màu sơn tím, bị cáo sử dụng vào trong quá trình phạm tội. Qua tra cứu, xác định chủ đứng tên đăng ký xe là chị Trần Thị Hải Yến, (Sinh năm: 1984, trú tại số 123 ĐK, phường TN, TP. N, tỉnh Nam Định.) Cơ quan điều tra tiến hành xác minh: Năm 2006, chị Y mua, đăng ký chiếc xe trên và sử dụng đến năm 2020 thì bán lại cho 01 người không quen biết, không làm thủ tục sang tên. T khai mua chiếc xe trên từ năm 2021 từ 01 người không quen biết. Xe không nằm trong cơ sở dữ liệu xe máy vật chứng. Cơ quan điều tra đã cho đăng báo An ninh thủ đô công khai 3 số liên tiếp các ngày 14, 15 và 16/6/2023 tìm chủ sở hữu hợp pháp. Sau một năm kể từ ngày đăng báo không tìm được chủ sở hữu hợp pháp thì tịch thu phát mại sung quỹ Nhà nước.
[6]. Đối với các đối tượng Trần Thị Phương L (trú tại: 3B Khu 3 tầng số 02 Phan Bội Châu, phường TĐN, thành phố N, tỉnh Nam Định) và người tên Nguyễn Thị H (trú tại: khu 3 tầng, phường T, TP. N, tỉnh Nam Định). Kết quả xác định hiện nay Trần Thị Phương L không sinh sống tại nơi đăng ký hộ khẩu thường trú. Đồng thời tại địa chỉ Khu 3 tầng đường PBC, phường TĐN, thành phố N, tỉnh Nam Định không có ai tên Nguyễn Thị H. Ngày 25/5/2023, cơ quan điều tra đã ra quyết định số 07 tách hành vi và tài liệu liên quan trong vụ án hình sự này đối với Trần Thị Phương L và Nguyễn Thị H để tiếp tục xác minh, làm rõ xử lý sau.
[7]. Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
[8]. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ vào các Điều 45; 46; 136; 260; 268; 269; 299; 326; 327; 329; 331; 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí Toà án;
1. Về tội danh:
Tuyên bố: Bị cáo Trần Thị T phạm tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
2. Về điều luật áp dụng và hình phạt:
Áp dụng khoản 1 Điều 174; điểm s khoản 1, Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự; Xử phạt: Bị cáo Trần Thị T 15 (Mười lăm) tháng tù.
Thời hạn tù tính từ ngày 28/3/2023.
3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự:
- Tịch thu tiêu hủy 02 hộp thuốc màu trắng có dòng chữ “TRUNG TÂM CHĂM SÓC SỨC KHỎE TOÀN CẦU BỘ Y TẾ THẾ GIỚI” bên trong chứa 08 túi ni lông chứa các hạt màu trắng;
- Tịch thu phát mại sung quỹ Nhà nước 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105 màu đen, lắp sim số 0827.909.1xxx.
- Đối với 01 (một) xe máy Honda Lead, BKS: 18P2-73xxx, số khung 10471001631, số máy 07B-00863, màu sơn tím: Áp dụng Điều 228 Bộ luật dân sự, sau một năm kể từ ngày đăng báo, không tìm được chủ sở hữu hợp pháp thì yêu cầu cơ quan thi hành án tịch thu phát mại sung quỹ Nhà nước.
(Tình trạng vật chứng theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 06 tháng 7 năm 2023 giữa cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận H và Chi cục thi hành án dân sự quận H).
4. Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
5. Về quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo, có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; vắng mặt người bị hại có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày được nhận bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.
Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 184/2023/HS-ST
Số hiệu: | 184/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Hai Bà Trưng - Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 31/07/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về