TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HÀ TĨNH
BẢN ÁN 16/2022/HS-ST NGÀY 12/05/2022 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
Ngày 12 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh H Tĩnh tiến hành xét xử sơ thẩm vụ án Hình sự thụ lý số 62/2021/TLST-HS ngày 22/12/2021 đối với bị cáo Ngô Thị L, bị Viện kiểm sát nhân dân tỉnh H Tĩnh truy tố về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” được quy định tại điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật hình sự. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 11/2022/QĐ-ST ngày 25/3/2012, quyết định hoãn phiên tòa số 22/2022/QĐ-ST, ngày 14/4/2022, đối với bị cáo:
Họ và tên: Ngô Thị L; tên gọi khác: Không; giới tính: Nữ; sinh ngày: 18/9/1955, tại xã S, huyện C, tỉnh H Tĩnh; nơi cư trú: Thôn Tự Cường, xã S, huyện C, tỉnh H Tĩnh; trình độ văn hóa: 07/10; Nghề nghiệp: Làm ruộng; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông: Ngô Đức S (đã chết); con bà: Trần Thị S (đã chết); chồng: Nguyễn Trí Th, sinh năm 1954; nghề nghiệp: Làm ruộng, trú tại: Thôn Tự Cường, xã S, huyện C, tỉnh H Tĩnh; con: Có 05 con, lớn nhất sinh năm 1978, nhỏ nhất sinh năm 1990; tiền án, tiền sự: Không;
Bị khởi tố bị can ngày 31/3/2021, bị bắt tạm giam từ ngày 01/4/2021 đến nay, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh H Tĩnh, có mặt.
- Người bào chữa cho bị cáo Ngô Thị L: Ông Nguyễn H, sinh năm: 1988, Luật sư Công ty Luật TNHH Mai S, Đoàn Luật sư tỉnh H Tĩnh, có mặt;
*Bị hại:
- Bà Nguyễn Thị H, sinh năm: 1970, địa chỉ: Thôn Tự Cường, xã S, huyện C, tỉnh H Tĩnh, có mặt;
- Bà Ngô Thị H, sinh năm: 1974, địa chỉ: Thôn Tự Cường, xã S, huyện C, tỉnh H Tĩnh, có mặt;
- Bà Thái Thị L, sinh năm: 1963, địa chỉ: Thôn Tự Cường, xã S, huyện C, tỉnh H Tĩnh, có mặt;
- Bà Nguyễn Thị X, sinh năm: 1968, địa chỉ: Thôn Tự Cường, xã S, huyện C, tỉnh H Tĩnh, có mặt;
- Bà Nguyễn Thị T, sinh năm: 1970, địa chỉ: Thôn Tự Cường, xã S, huyện C, tỉnh H Tĩnh, có mặt;
- Bà Đặng Thị T, sinh năm: 1964, địa chỉ: Thôn Tự Cường, xã S, huyện C, tỉnh H Tĩnh, vắng mặt;
- Bà Nguyễn Thị S, sinh năm: 1959, địa chỉ: Thôn Tự Cường, xã S, huyện C, tỉnh H Tĩnh, vắng mặt;
- Bà Trần Thị C, sinh năm: 1961,địa chỉ: Thôn Tự Cường, xã S, huyện C, tỉnh H Tĩnh, vắng mặt;
- Bà Nguyễn Thị V, sinh năm: 1985,địa chỉ: Thôn Tự Cường, xã S, huyện C, tỉnh H Tĩnh, có mặt;
- Bà Nguyễn Thị H, sinh năm: 1974, địa chỉ: Thôn Tự Cường, xã S, huyện C, tỉnh H Tĩnh, có mặt;
- Bà Thái Thị H, sinh năm: 1967, địa chỉ: Thôn Trung S, xã S, huyện C, tỉnh H Tĩnh, có mặt;
- Bà Nguyễn Thị T, sinh năm: 1958, địa chỉ: Thôn Thượng S, xã S, huyện C, tỉnh H Tĩnh, có mặt;
- Bà Nguyễn Thị H, sinh năm: 1958, địa chỉ: Thôn Khánh S, xã S, huyện C, tỉnh H Tĩnh, vắng mặt;
- Anh Thân Văn S, sinh năm: 1960, địa chỉ: Thôn Khánh S, xã S, huyện C, tỉnh H Tĩnh, vắng mặt;
- Bà Hoàng Thị H, sinh năm: 1952, địa chỉ: Thôn Trung S, xã S, huyện C, tỉnh H Tĩnh, vắng mặt;
* Trợ giúp viên pháp lý:
- Bà Nguyễn Thị Ng, Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh H Tĩnh bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho bà Thái Thị H, bà Nguyễn Thị T.
- Ông Nguyễn X H, Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh H Tĩnh bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho bà Hoàng Thị H.
*Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Ông Nguyễn Trí Th, sinh năm: 1954, địa chỉ: Thôn Tự Cường, xã S, huyện C, tỉnh H Tĩnh; có mặt.
* Người làm chứng:
- Bà Nguyễn Thị Nh, sinh năm: 1985, địa chỉ: Đội 6, Đại An K, xã Hải Th, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Ngô Thị L là Chi hội trưởng Chi hội phụ nữ thôn Tự Cường, xã S, huyện C. T năm 2012 đến 2020, Ngô Thị L được chính quyền địa phương giới thiệu kiêm nhiệm làm cán bộ tín dụng hỗ trợ cho Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Can Lộc - Phòng giao dịch Đồng Lộc, Ngân hàng Đông Nam Á (Sea Bank) - Chi nhánh tỉnh H Tĩnh và Quỹ Tiết kiệm nhân dân xã S, huyện C.
Trước tháng 6/2018, Ngô Thị L kinh doanh bị thua lỗ, bị lừa khi đầu tư mua tiền ảo theo mô hình đa cấp dẫn đến phải vay tiền của các tổ chức tín dụng và một số cá nhân trong một thời gian dài dẫn đến mất khả năng chi trả. T tháng 06/2018 đến tháng 10/2020, L biết mình vỡ nợ, không có khả năng chi trả các khoản vay nhưng L đã đưa ra các thông tin gian dối, không đúng sự thật như: cần tiền để mua đất cho con, chữa bệnh tim cho cháu, trả khoản vay ở Ngân hàng Agribank, đóng tiền bảo hiểm cho khách hàng … và cam kết trả lại tiền vay đầy đủ theo thỏa thuận để lừa vay mượn rồi chiếm đoạt của 15 người bị hại trên địa bàn tỉnh H Tĩnh với tổng số tiền là 1.085.400.000 đồng. Cụ thể như sau:
1. Hành vi lừa đảo chiếm đoạt 100.000.000đồng của bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1966, trú tại thôn Tự Cường, xã S, huyện C, tỉnh H Tĩnh.
Ngô Thị L và bà Nguyễn Thị H có mối quan hệ họ hàng với nhau. Khoảng tháng 6/2018 Ngô Thị L cần tiền để trả nợ các khoản vay nên nảy sinh ý định lừa đảo chiếm đoạt tiền của bà Nguyễn Thị H, L đưa ra thông tin gian dối là cần tiền để mua đất cho con và hỏi vay bà H 100.000.000đồng. Tin tưởng L nên ngày 25/6/2018 bà H thế chấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của gia đình vay ngân hàng Agribank chi nhánh huyện Can Lộc (kỳ hạn 01 năm) để vay 100.000.000đồng và đưa cho L. Sau khi nhận tiền L đã sử dụng để trả nợ và chi tiêu cá nhân. Ngoài ra, trong tháng 9/2017, Ngô Thị L đã vay của bà H số tiền 30.000.000đồng, L thực hiện việc trả tiền lãi đầy đủ theo thỏa thuận, nhưng còn nợ bà H 30.000.000đồng. Hiện bà Nguyễn Thị H yêu cầu Ngô Thị L bồi thường và trả nợ số tiền gốc là 130.000.000đồng và 11.455.000đồng tiền lãi (Bút lục 157-165; 329-330).
2. Hành vi lừa đảo chiếm đoạt 20.000.000đồng của chị Ngô Thị H, sinh năm 1974, trú tại thôn Tự Cường, xã S, huyện C, tỉnh H Tĩnh.
Ngô Thị L và chị Ngô Thị H có mối quan hệ họ hàng với nhau. Khoảng tháng 11/2018, L đưa ra thông tin gian dối nhờ chị H vay giúp 20.000.000 đồng ở Ngân hàng Agribank để nộp tiền bảo hiểm cho khách hàng, cam kết một tháng sau khi thu được tiền bảo hiểm của khách sẽ trả lại đầy đủ. Tin tưởng L nên ngày 21/11/2018, chị H thế chấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của gia đình vay Ngân hàng Agribank chi nhánh huyện C số tiền 100.000.000đồng và đưa cho L vay 20.000.000đồng, còn 80.000.000đồng chị H sử dụng. Sau khi nhận tiền, L đã trả nợ và chi tiêu cá nhân hết. Hiện chị H yêu cầu Ngô Thị L bồi thường số tiền gốc là 20.000.000đồng và 2.052.000đồng tiền lãi (Bút lục 190-194; 329-330).
3. Hành vi lừa đảo chiếm đoạt 150.000.000đồng của bà Thái Thị L, sinh năm 1963, trú tại thôn Tự Cường, xã S, huyện C, tỉnh H Tĩnh.
Ngô Thị L và bà Thái Thị L có mối quan hệ hàng xóm láng giềng với nhau. Khoảng tháng 12/2016, L nhờ bà L vay 80.000.000đồng tại Ngân hàng Agribank chi nhánh huyện Can Lộc với lý do để mua đất. Thấy L làm công việc phụ nữ có uy tín nên ngày 02/12/2016 bà L làm thủ tục thế chấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của gia đình vay số tiền 80.000.000đồng (kỳ hạn 01 năm) và đưa cho L cùng với toàn bộ hồ sơ vay vốn để L thực hiện việc đóng tiền lãi hàng tháng.
Đến tháng 12/2018, Ngô Thị L cần tiền để trả nợ các khoản vay nên nảy sinh ý định lừa đảo chiếm đoạt tiền của bà Thái Thị L. L nói dối với bà L là“số tiền vay 80.000.000đồng trước đã mua đất tuy nhiên đất rẻ nên chưa bán được. Giờ cần vay thêm 150.000.000đồng để mua đất tiếp, L cam kết khi nào bán được đất sẽ trả tiền”. Tin tưởng L nên ngày 07/12/2018 bà L đến Ngân hàng Agribank chi nhánh huyện C làm thủ tục vay thêm 150.000.000đồng (gộp cả khoản vay trước vào một hợp đồng vay 230.000.000đồng, kỳ hạn 01 năm) và đưa cho L cùng toàn bộ hồ sơ vay vốn để L thực hiện việc trả tiền lãi. Sau khi nhận tiền, L sử dụng để trả nợ và chi tiêu cá nhân hết. Như vậy, Ngô Thị L đã lừa đảo chiếm đoạt của bà Thái Thị L số tiền 150.000.000đồng. Hiện nay, bà L yêu cầu L bồi thường và trả nợ tổng số tiền gốc là 230.000.000đồng và 35.514.000 đồng tiền lãi (Bút lục 190-194; 327-328; 333-334).
4. Hành vi lừa đảo chiếm đoạt 107.400.000đồng của bà Nguyễn Thị X, sinh năm 1968, trú tại thôn Tự Cường, xã S, huyện C, tỉnh H Tĩnh.
Bà Nguyễn Thị X và Ngô Thị L có mối quan hệ họ hàng. T tháng 12/2018 đến tháng 12/2019, Ngô Thị L đã 04 lần lừa đảo chiếm đoạt 107.400.000đồng của bà X để trả nợ và chi tiêu cá nhân, cụ thể như sau:
- Lần thứ nhất: Tháng 12/2018, Ngô Thị L đưa ra thông tin gian dối nhờ bà Nguyễn Thị X vay giúp cho L tại Ngân hàng Agribank chi nhánh huyện C số tiền 60.000.000đồng để L nộp tiền bảo hiểm cho khách hàng, L cam kết sau khi thu được tiền bảo hiểm của khách sẽ trả lại. Tin tưởng L, ngày 03/12/2018 bà X làm thủ tục thế chấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của gia đình vay số tiền 200.000.000 đồng (kỳ hạn 01 năm, lãi suất 9,84%/năm) và đưa cho L vay 60.000.000 đồng, còn 140.000.000đồng bà X sử dụng.
- Lần thứ hai: Tháng 3/2019, Ngô Thị L nói dối bà X cần 30.000.000đồng để trả khoản vay ở Ngân hàng Chính sách xã hội huyện C, L cam kết 01 tháng sau sẽ vay tiền tại Ngân hàng chính sách xã hội huyện C trả lại cho bà X. Tin tưởng L nên ngày 27/3/2019 bà X làm thủ tục vay thêm 100.000.000đồng ở Ngân hàng Agribank chi nhanh huyện C (gộp cả khoản vay trước vào một hợp đồng vay 300.000.000đồng, kỳ hạn 01 năm, lãi suất 9,84%/năm) và đưa cho L vay 30.000.000đồng, còn 70.000.000đồng bà X sử dụng. Sau đó, L đã trả lại cho bà X 7.000.000đồng.
- Lần thứ ba: Tháng 7/2019, Ngô Thị L tiếp tục đưa ra thông tin gian dối nhờ bà X vay giúp cho L 30.000.000đồng tại Công ty tài chính TNHH MTV ngân hàng Việt Nam Thịnh Vượng với lý do để L nộp tiền bảo hiểm cho khách hàng nếu không nộp kịp thời sẽ bị khóa tài khoản. Tin tưởng L nên ngày 03/7/2019 bà X làm thủ tục vay 30.000.000đồng nhưng chỉ đưa cho L vay 10.000.000đồng, thỏa thuận mỗi tháng L phải trả cho bà X số tiền 630.000đồng để trả cho Ngân hàng, L đồng ý. T tháng 7/2019 đến tháng 7/2020, L đã trả cho bà X số tiền 8.190.000đồng, sau đó L không có khả năng để trả tiền cho bà X.
- Lần thứ tư: Ngày 29/12/2019, Ngô Thị L đưa ra thông tin gian dối hỏi vay tiền của bà X để trả lãi các khoản vay, cam kết đến ngày 06/01/2020 L sẽ trả đủ số tiền đã vay, bà X tin tưởng nên cho L vay 7.400.000đồng.
Hiện nay, bà Nguyễn Thị X yêu cầu Ngô Thị L bồi thường số tiền gốc là 97.330.000đồng và 10.080.000đồng tiền lãi (Bút lục 331-332; 531-534)
5. Hành vi lừa đảo chiếm đoạt 120.000.000đồng của chị Nguyễn Thị T, sinh năm 1970, trú tại thôn Tự Cường, xã S, huyện C, tỉnh H Tĩnh Ngô Thị L và chị Nguyễn Thị T có mối quan hệ họ hàng. T tháng 5/2019 đến tháng 8/2019, L đã 02 lần lừa đảo chiếm đoạt 120.000.000đồng của chị T để trả nợ và chi tiêu cá nhân, cụ thể như sau:
- Lần thứ nhất: Tháng 05/2019, Ngô Thị L đặt vấn đề nhờ chị Nguyễn Thị T vay giúp Ngân hàng Agribank chi nhánh huyện C số tiền 20.000.000đồng, cam kết trả tiền gốc, tiền lãi theo quy định. Tin tưởng L nên ngày 23/5/2019 chị T làm thủ tục vay Ngân hàng số tiền 100.000.000đồng (kỳ hạn 01 năm, lãi suất 10,44%/năm) và đưa cho L vay 20.000.000đồng, còn 80.000.000đ bà T sử dụng.
- Lần thứ hai: Tháng 8/2019, Ngô Thị L nói dối chị Nguyễn Thị T là “Mự đảo khế vay thêm cho bác 100.000.000đồng để bác trả nợ khoản vay bên Ngân hàng chính sách, sau 03 ngày bác làm thủ tục vay Ngân hàng chính sách 120.000.000đồng trả lại cho mự”. Tin tưởng L nên ngày 29/8/2019, chị T làm thủ tục vay Ngân hàng Agribank thêm 100.000.000đồng (gộp vào khoản vay trước thành 200.000.000đồng, kỳ hạn 02 năm, lãi suất 10,44%/năm) và đưa cho L vay.
Hiện nay, chị T yêu cầu Ngô Thị L bồi thường số tiền gốc là 120.000.000đồng và 19.800.000đồng tiền lãi (Bút lục 195-201; 335-336).
6. Hành vi lừa đảo chiếm đoạt 150.000.000đồng của bà Đặng Thị T, sinh năm 1964, trú tại thôn Tự Cường, xã S, huyện C, tỉnh H Tĩnh Ngày 13/6/2019, Ngô Thị L đến nhà bà Đặng Thị T đưa ra thông tin gian dối là chứng minh nhân dân của L bị sai số hiện đang làm thủ tục sửa sai nên chưa làm thủ tục vay tiền ở Ngân hàng Agribank chi nhánh huyện C. L đặt vấn đề nhờ bà T thế chấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vay giúp cho L 150.000.000đồng, cam kết một tháng sau làm xong chứng minh nhân dân sẽ vay tiền ngân hàng trả lại cho bà T. Tin tưởng L nên ngày 14/6/2019, bà T thế chấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vay Ngân hàng Agribak chi nhánh huyện C số tiền 150.000.000đồng (kỳ hạn 01 năm, lãi suất 9,84%/năm) và đưa cho L. Sau khi nhận tiền, L sử dụng để trả nợ và chi tiêu cá nhân. Hiện bà Đặng Thị T yêu cầu L bồi thường số tiền gốc là 150.000.000đồng và 15.444.000đồng tiền lãi (Bút lục 202-208; 337-338).
7. Hành vi lừa đảo chiếm đoạt 200.000.000đồng của bà Nguyễn Thị S, sinh năm 1959, trú tại thôn Tự Cường, xã S, huyện C, tỉnh H Tĩnh.
Ngô Thị L và bà Nguyễn Thị S có mối quan hệ họ hàng. Tháng 7/2019, Ngô Thị L nói dối với bà S cần tiền mua đất cho con ở miền Nam và nhờ bà S vay giúp cho L tại Ngân hàng Agribank chi nhánh huyện C số tiền 200.000.000đồng. Tin tưởng L nên ngày 24/7/2019, bà S thế chấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vay Ngân hàng số tiền 200.000.000đồng (kỳ hạn 02 năm, lãi suất 10,44%/năm) và đưa cho L. Sau khi nhận tiền, L sử dụng để trả nợ và chi tiêu cá nhân. Hiện nay, bà Nguyễn Thị S yêu cầu Ngô Thị L bồi thường số tiền gốc là 200.000.000đồng và 20.592.000đồng tiền lãi (Bút lục 209-215; 325-326).
8. Hành vi lừa đảo chiếm đoạt 35.000.000đồng của bà Trần Thị C, sinh năm 1961, trú tại thôn Tự Cường, xã S, huyện C, tỉnh H Tĩnh.
Ngô Thị L và bà Trần Thị C có mối quan hệ thông gia với nhau. T tháng 9/2019 đến tháng 6/2020, L đã vỡ nợ, mất khả năng chi trả, nhưng L đã 03 lần lừa đảo vay mượn và chiếm đoạt 35.000.000đồng của bà C để trả nợ và chi tiêu cá nhân, cụ thể như sau:
- Lần thứ nhất: Ngày 09/9/2019 bà C làm thủ tục thế chấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vay Ngân hàng Agribank Phòng giao dịch Đồng Lộc số tiền 150.000.000đồng (kỳ hạn 02 năm, lãi suất 10,44%/năm) để mua đất cho con. Ngô Thị L biết được thông tin nên sang nhà bà C hỏi vay số tiền 20.000.000đồng cam kết trả tiền lãi, tiền gốc theo quy định. Bà C tin tưởng đồng ý cho L vay số tiền 20.000.000đồng. Sau đó, L trả tiền lãi cho bà C theo thỏa thuận đến tháng 6/2020 thì L không có khả năng để trả.
- Lần thứ hai: Tháng 3/2020, Ngô Thị L nhờ bà Trần Thị C vay Quỹ tiết kiệm nhân dân xã S, huyện C số tiền 10.000.000đồng, cam kết trả nợ gốc và lãi mỗi tháng 1.000.000đồng nên bà C đồng ý. Sau đó, L đã trả cho bà C số tiền 4.000.000đồng, còn lại 6.000.000đồng L không có khả năng để trả.
- Lần thứ ba: Tháng 6/2020, Ngô Thị L tiếp tục hỏi vay bà Trần Thị C số tiền 5.000.000đồng, cam kết trả tiền gốc, lãi theo quy định, tin tưởng L nên bà C đồng ý đưa cho L vay 5.000.000đồng.
Hiện nay, bà Trần Thị C yêu cầu Ngô Thị L bồi thường số tiền gốc là 31.000.000đồng và 2.800.000đồng tiền lãi (Bút lục 216-222; 353-354).
9. Hành vi lừa đảo chiếm đoạt 50.000.000đồng của chị Nguyễn Thị V, sinh năm 1985, trú tại thôn Tự Cường, xã S, huyện C, tỉnh H Tĩnh T tháng 10/2019 đến tháng 3/2020, Ngô Thị L đã 03 lần lừa đảo chiếm đoạt 50.000.000đồng của chị Nguyễn Thị V để trả nợ và chi tiêu cá nhân, cụ thể như sau:
- Lần thứ nhất: Tháng 10/2019, Ngô Thị L nói dối chị V cần tiền để chạy cho con rể lên chức hiệu trưởng và nhờ chị V vay giúp cho L tại Ngân hàng chính sách số tiền 20.000.000đồng, L cam kết 1 tháng sẽ trả lại. Tin tưởng L nên ngày 19/10/2019 chị V làm thủ tục vay tiền Ngân hàng và đưa cho L 20.000.000đồng.
- Lần thứ hai: Tháng 11/2019, Ngô Thị L nói dối cần tiền để cho cháu chữa bệnh tim và nhờ chị V vay giúp cho L tại Quỹ tiết kiệm nhân dân xã S số tiền 20.000.000đồng. Tin tưởng L nên ngày 13/11/2019, chị V làm thủ tục vay số tiền 20.000.000đồng và đưa cho L. Sau đó, chị V nhiều lần yêu cầu L trả lại tiền thì L trả cho chị V 10.000.000đồng.
- Lần thứ ba: Tháng 3/2020, Ngô Thị L nói dối làm mất tiền quỹ Hội cựu chiến binh của chồng và hỏi vay chị V 10.000.000đồng, chị V nói bây giờ gia đình không có mà chỉ còn ít tiền đang gửi tại bà nội là Phan Thị Nh ở trang trại tại xã S để mua thức ăn cho gà. Sau đó, Ngô Thị L đi đến trang trại gặp bà Nh nói dối là chị Nguyễn Thị V nói cho L vay 10.000.000đồng, bà Nh tin tưởng nên đưa cho L số tiền 10.000.000đồng.
Hiện nay, chị Nguyễn Thị V yêu cầu Ngô Thị L bồi thường số tiền gốc là 40.000.000đồng và 2.436.000đồng tiền lãi (Bút lục 223-227; 339-340).
10. Hành vi lừa đảo chiếm đoạt 50.000.000đồng của chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1974, trú tại thôn Tự Cường, xã S, huyện C, tỉnh H Tĩnh
Tháng 12/2019, Ngô Thị L đưa ra thông tin gian dối nhờ chị Nguyễn Thị H vay giúp cho L tại Ngân hàng Chính sách xã hội huyện Can Lộc số tiền 50.000.000đồng để trả khoản tiền vay ở Ngân hàng Agribank chi nhánh huyện C để giảm tiền lãi phải nộp hàng tháng. Tin tưởng L nên ngày 19/01/2020, chị H làm thủ tục vay tại Ngân hàng Chính sách xã hội huyện Can Lộc số tiền 50.000.000đồng và đưa cho L. Sau khi nhận tiền, L sử dụng để trả nợ và chi tiêu cá nhân. Sau đó, chị H nhiều lần yêu cầu L trả lại tiền thì L trả cho chị H 6.000.000đồng. Ngoài ra, tháng 8/2018 Ngô Thị L cùng con dâu là chị Lê Thị Th (sinh năm 1996, trú tại xã X Lộc, huyện C, tỉnh H Tĩnh) vay chị Nguyễn Thị H 100.000.000đồng để làm thủ tục cho chị Th đi lao động tại Đài Loan, hiện chị Th đã trả 70.000.000đồng cho chị H, còn 30.000.000đồng L đồng ý trả cho chị H. Hiện nay, chị H yêu cầu Ngô Thị L bồi thường và trả nợ số tiền gốc là 74.000.000đồng và 6.391.560đồng tiền lãi (Bút lục 228-240; 343-344; 363-364).
11. Hành vi lừa đảo chiếm đoạt 25.000.000đồng của bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1958, trú tại thôn Khánh S, xã S, huyện C T ngày 06/02/2020 đến ngày 20/02/2020, Ngô Thị L đã 02 lần lừa đảo chiếm đoạt 25.000.000đồng của bà Nguyễn Thị T, cụ thể như sau:
- Lần thứ nhất: Ngày 06/02/2020, Ngô Thị L nói dối cần tiền để nộp tiền bảo hiểm cho khách hàng và hỏi vay bà Nguyễn Thị T 10.000.000đồng, cam kết đến ngày 20/02/2020 sẽ trả tiền, bà T tin tưởng cho L vay 10.000.000đồng.
- Lần thứ hai: Ngày 20/02/2020, tới thời hạn trả tiền L tiếp tục đến gặp bà T nói dối hôm nay đến hạn trả tiền nhưng chưa thu được tiền bảo hiểm của khách và hỏi vay bà T thêm số tiền 15.000.000 đồng để nộp tiền bảo hiểm cho khách hàng, L cam kết cuối tháng 02/2020 thu được tiền sẽ trả tổng số 25.000.000đồng, bà T tin tưởng đồng ý cho L vay 15.000.000đồng.
Hiện nay, bà Nguyễn Thị T yêu cầu Ngô Thị L bồi thường số tiền 25.000.000đồng (Bút lục 257-262; 349-350).
12. Hành vi lừa đảo chiếm đoạt 13.000.000đồng của bà Thái Thị H, sinh năm 1967, trú tại thôn Tự Cường, xã S, huyện C, tỉnh H Tĩnh
Tháng 02/2020, Ngô Thị L đã vỡ nợ, mất khả năng chi trả, L đặt vấn đề vay số tiền 13.000.000đồng của bà Thái Thị H, cam kết mỗi tháng trả 500.000 đồng tiền gốc và lãi, khi nào bà H yêu cầu thì L trả đầy đủ. Bà H tin tưởng đồng ý cho L vay 13.000.000 đồng. Sau khi nhận tiền, L sử dụng để trả nợ và chi tiêu cá nhân. Sau đó, L không thực hiện việc trả tiền theo cam kết, bà H nhiều lần yêu cầu L trả lại tiền thì L trả cho bà H 750.000đồng. Hiện bà Thái Thị H yêu cầu Ngô Thị L bồi thường 13.000.000đồng. (Bút lục 241-246; 351-352)
13. Hành vi lừa đảo chiếm đoạt 20.000.000đồng của bà Hoàng Thị H, sinh năm 1952, trú tại thôn Trung S, xã S, huyện C, tỉnh H Tĩnh
Tháng 03/2020, Ngô Thị L nói dối bà Hoàng Thị H cần tiền để cho cháu ngoại mổ tim và hỏi vay số tiền 20.000.000đồng cam kết sau 03 ngày sẽ trả, bà H tin tưởng cho L vay 20.000.000đồng. Sau khi nhận tiền, L sử dụng để trả nợ và chi tiêu cá nhân hết. Sau đó, bà H nhiều lần yêu cầu L trả lại số tiền trên, đến ngày 09/02/2021 L trả lại cho bà H số tiền 11.000.000đồng. Hiện nay, bà Thái Thị H yêu cầu Ngô Thị L bồi thường 9.000.000 đồng. (247-252; 347-348)
14. Hành vi lừa đảo chiếm đoạt 31.000.000đồng của bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1958, trú tại thôn Khánh S, xã S, huyện C, tỉnh H Tĩnh
Tháng 5/2020, Ngô Thị L nói dối bà Nguyễn Thị H cần tiền để cho cháu ngoại mổ tim và hỏi vay bà H 30.000.000đồng cam kết sau 05 ngày sẽ trả. Tin tưởng L nên ngày 06/5/2020 bà H làm thủ tục vay ở Quỹ tiết kiệm nhân dân xã S, huyện C số tiền 30.000.000đồng, bà H có sẵn 1.000.000đồng tiền mặt nên đưa cho L vay tổng số 31.000.000đồng. Sau khi nhận tiền, L sử dụng để trả nợ và chi tiêu cá nhân. Sau đó, bà H nhiều lần yêu cầu L trả lại số tiền trên thì L trả cho bà H 6.000.000đồng. Hiện bà Nguyễn Thị H yêu cầu Ngô Thị L bồi thường 25.000.000đồng. (Bút lục 253-256; 363-364)
15. Hành vi lừa đảo chiếm đoạt 14.000.000đồng của ông Thân Văn S, sinh năm 1960, trú tại thôn Khánh S, xã S, huyện C, tỉnh H Tĩnh
Tháng 5/2020, Ngô Thị L đưa ra thông tin gian dối hỏi vay ông Thân Văn S số tiền 14.000.000đồng để nộp tiền lãi, cam kết trong ngày sẽ trả lại. Tin tưởng L nên ông S đồng ý cho L vay 14.000.000đồng. Sau khi nhận tiền, L đã sử dụng để trả nợ và chi tiêu cá nhân. Hiện ông Thân Văn S yêu cầu Ngô Thị L bồi thường 14.000.000đồng (Bút lục 263-268; 345-346).
* Về vật chứng vụ án:
+ 10 bộ Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ AIA;
+ 01 phiếu thu tiền bảo hiểm ngày 03/11/2012;
+ 23 giấy chứng nhận, giấy yêu cầu bảo hiểm bảo an;
+ 04 đơn xin vay vốn;
+ 07 bảng tổng hợp thu tiền vốn vay của Ngân hàng Đông Nam Á - chi nhánh H Tĩnh;
+ 15 giấy nộp tiền tại Ngân hàng Đông Nam Á - chi nhánh H Tĩnh;
+ 40 bảng kê thu gốc, lãi của Ngân hàng Agribank;
+ 70 biên lai thu lãi, thu tiền của Ngân hàng chính sách xã hội huyện C;
+ 03 sổ vay vốn kiêm hợp đồng tín dụng của Ngân hàng Agribank chi nhánh huyện C;
+ 04 Hợp đồng tín dụng của Ngân hàng Agribank chi nhánh huyện C;
+ 16 phiếu thu của Ngân hàng Agribank chi nhánh huyện C;
+ 01 chứng từ giao dịch của Ngân hàng Agribank chi nhánh huyện C;
+ 07 thông báo nộp lãi của Ngân hàng Agribank chi nhánh huyện C;
+ 02 biên bản làm việc của Ngân hành Agribank chi nhánh huyện C;
+ 01 công văn thay đổi ngày thu nợ lưu động đề ngày 08/01/2018;
+ 01 vở học sinh bìa màu xanh;
+ 12 tờ giấy có ghi chữ và các con số;
+ 02 áo sơ mi ngắn tay, phần ngực trái có chữ Vsystem.
Cơ quan điều tra đã trả lại cho Ngô Thị L: 10 bộ Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ AIA. Chuyển đến Cục thi hành án dân sự tỉnh H Tĩnh: 02 áo sơ mi ngắn tay, phần ngực trái có chữ Vsystem. Số vật chứng còn lại chuyển lưu giữ theo hồ sơ vụ án để xử lý theo quy định của pháp luật.
Hành vi trên của bị cáo Ngô Thị L đã bị Viện kiểm sát nhân dân tỉnh H Tĩnh truy tố tại Cáo trạng số 02/Ctr-VKS-P2 ngày 20/12/2021 về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát sau khi phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đã đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174, điểm g khoản 1 Điều 52, điểm s, v khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, tuyên bố bị cáo Ngô Thị L phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” xử phạt bị cáo mức án từ 12 đến 13 năm tù; buộc bồi thường thiệt hại cho các bị hại và ghi nhận thỏa thuận về dân sự, xử lý vật chứng theo quy định.
Người bào chữa không tranh luận về tội danh, điều luật áp dụng, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm dân sự, nhân thân cũng như các thành tích để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Các trợ giúp viên pháp lý không tranh luận về tội danh, điều luật áp dụng, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét thái độ của bị cáo đối với hậu quả tội phạm đã gây ra để đưa ra một mức hình phạt phù hợp đồng thời buộc bị cáo phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại vì các bị hại hoàn cảnh rất khó khăn, đang phải trả tiền lãi cho ngân hàng.
Các bị hại đều đề nghị Hội đồng xét xử buộc bị cáo phải bồi thường thiệt hại và trả tiền lãi theo nội dung cáo trạng truy tố, xử phạt bị cáo theo quy định của pháp luật.
Tại lời nói sau cùng, bị cáo chỉ xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm được trở về chăm lo cho các con, sống lương thiện.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an tỉnh H Tĩnh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh H Tĩnh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh H Tĩnh. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ tại hồ sơ vụ án. Do đó, có đủ cơ sở để khẳng định: Trong thời gian từ tháng 6/2018 đến tháng 10/2020, mặc dù đã bị vỡ nợ và không có khả năng chi trả các khoản vay nhưng Ngô Thị L đã đưa ra các thông tin gian dối như: cần tiền để mua đất cho con, để chữa bệnh tim cho cháu, để trả khoản vay ở Ngân hàng Agribank, để đóng tiền bảo hiểm cho khách hàng …và cam kết thời gian trả nợ đầy đủ để lừa vay mượn rồi chiếm đoạt tổng số tiền 1.085.400.000 đồng của 15 người bị hại trên địa bàn tỉnh H Tĩnh, gồm: Bà Nguyễn Thị H 100.000.000đồng; chị Ngô Thị H 20.000.000đồng; bà Thái Thị L 150.000.000đồng; bà Nguyễn Thị X 107.400.000đồng; chị Nguyễn Thị T 120.000.000đồng; bà Đặng Thị T 150.000.000đồng; bà Nguyễn Thị S 200.000.000đồng; bà Trần Thị C 35.000.000đồng; chị Nguyễn Thị V 50.000.000đồng; chị Nguyễn Thị H 50.000.000đồng; bà Nguyễn Thị T 25.000.000đồng; bà Thái Thị H 13.000.000đồng; bà Hoàng Thị H 20.000.000đồng; bà Nguyễn Thị H 31.000.000đồng; ông Thân Văn S 14.000.000đồng. Toàn bộ số tiền chiếm đoạt, Ngô Thị L sử dụng để trả nợ và chi tiêu cá nhân. Đến nay, Ngô Thị L đã trả lại cho một số người bị hại tổng số tiền là 52.940.000đồng, gồm: bà Nguyễn Thị X 15.190.000đồng, bà Trần Thị C 4.000.000đồng, chị Nguyễn Thị V 10.000.000đồng, chị Nguyễn Thị H 6.000.000đồng, bà Thái Thị H 750.000đồng, bà Hoàng Thị H 11.000.000đồng và bà Nguyễn Thị H 6.000.000đồng.
[2] Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật hình sự”. Vì vậy, việc truy tố và xét xử bị cáo theo tội danh và điều luật như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh H Tĩnh truy tố là đúng người, đúng tội, không oan sai. Tại phiên tòa, lời luận tội của Viện kiểm sát đã đánh giá đầy đủ tính chất, hậu quả của hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo mức án từ 12 đến 13 năm tù là có cơ sở và phù hợp.
[3] Xét động cơ, mục đích, tính chất hành vi tội phạm: Khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự nên phải chịu mọi chế tài hình sự về tội phạm đã thực hiện. Ngô Thị L nguyên là Chi hội trưởng Chi hội phụ nữ thôn Tự Cường. Lợi dụng uy tín cá nhân và niềm tin của những người quen biết, bị cáo đã đưa ra các thông tin gian dối như vay tiền để mua đất cho con, nộp tiền bảo hiểm cho khách hàng… để chiếm đoạt tài sản của các bị hại, trả nợ cá nhân.
Nguyên nhân dẫn đến việc bị cáo thực hiện hành vi phạm tội là do kinh doanh thua lỗ, bị lừa khi đầu tư mua tiền ảo theo mô hình đa cấp dẫn đến phải vay tiền từ các tổ chức tín dụng, người quen biết trong một thời gian dài dẫn đến vỡ nợ, mất khả năng thanh toán khoản vay. Những người bị hại là những người họ hàng, láng giềng, quen biết với bị cáo. Để có tiền cho bị cáo vay họ đã thế chấp tài sản, một số cá nhân đến nay không có khả năng trả nợ cho ngân hàng. Hành vi phạm tội của bị cáo đã gây thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng về tài sản, chiếm đoạt của 15 cá nhân số tiền 1.085.400.000 đồng, đã trả được 46.940.000 đồng. Tội phạm bị cáo thực hiện không chỉ xâm phạm đến quan hệ sở hữu tài sản của cá nhân, tổ chức được pháp luật hình sự Việt Nam bảo vệ mà còn gây tâm lý hoang mang, bức xúc trong dư luận xã hội, ảnh hưởng rất lớn đến điều kiện kinh tế, sinh hoạt gia đình của bị hại, gây mất ổn định tình hình an ninh trật tự trên địa bàn. Bị cáo bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “phạm tội hai lần trở lên” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Tuy nhiên, bị cáo lần đầu phạm tội, thành khẩn khai báo, bồi thường một phần thiệt hại cho một số người bị hại, quá trình công tác, Ngô Thị L được Ban chấp hành Hội liên hiệp phụ nữ tỉnh H Tĩnh chứng nhận đạt thành tích xuất sắc 5 năm (2002-2007) trong phong trào “Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc” và nhiều giấy khen của UBND xã S nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s, v khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Do đó, khi lượng hình cần xem xét, đánh giá toàn diện để xử phạt bị cáo Ngô Thị L mức hình phạt phù hợp.
[4] Hành vi liên quan trong vụ án: Trước thời điểm vỡ nợ và đang có khả năng chi trả, bị cáo Ngô Thị L vay mượn của bà Nguyễn Thị H 30.000.000đồng, bà Thái Thị L 80.000.000đồng, chị Nguyễn Thị H 30.000.000đồng và thực hiện việc trả tiền lãi đầy đủ theo thỏa thuận. Xét thấy, đây là các giao dịch dân sự. Hiện nay, bà H, bà L và chị H yêu cầu L trả nợ số tiền này; bị cáo Ngô Thị L chấp nhận trả và giải quyết trong vụ án này.Do đó, áp dụng Điều 213, 246 Bộ luật Tố tụng dân sự: Công nhận sự thỏa thuận giữa bị cáo và người bị hại về các giao dịch dân sự. Cụ thể: Bị cáo trả lại cho bà Nguyễn Thị H 30.000.000đồng, trả lại bà Thái Thị L 80.000.000đồng, trả lại cho chị Nguyễn Thị H 30.000.000 đồng.
[5] Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa, các bị hại yêu cầu bị cáo trả lại số tiền gốc và lãi như đã xác định trong quá trình điều tra. Bị cáo chấp nhận yêu cầu trên. Do đó, áp dụng khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự và các Điều 584, 585, 586, 589 Bộ luật Dân sự năm 2015, buộc bị cáo Ngô Thị L phải trả lại cho các bị hại số tiền đã chiếm đoạt, cụ thể:
+ Bà Nguyễn Thị H: 100.000.000đồng và 11.455.000đồng tiền lãi.
+ Bà Ngô Thị H: 20.000.000đồng và 2.052.000đồng tiền lãi
+ Bà Thái Thị L: 150.000.000đồng và 35.514.000 đồng tiền lãi
+ Bà Nguyễn Thị X: 92.210.000đ và 10.080.000đồng tiền lãi
+ Bà Nguyễn Thị T: 120.000.000đồng và 19.800.000đồng tiền lãi
+ Bà Đặng Thị T: 150.000.000đồng và 15.444.000đồng tiền lãi
+ Bà Nguyễn Thị S: 200.000.000đồng và 20.592.000đồng tiền lãi
+ Bà Trần Thị C: 31.000.000đ và 2.800.000 đồng tiền lãi
+ Chị Nguyễn Thị V: 40.000.000đ và 2.436.000 đồng tiền lãi
+ Chị Nguyễn Thị H: 44.000.000đ và 6.391.560 đồng tiền lãi
+ Bà Nguyễn Thị T: 25.000.000đồng;
+ Bà Thái Thị H: 12.250.000đ;
+ Bà Hoàng Thị H: 9.000.000đ;
+Bà Nguyễn Thị H: 25.000.000đ;
+ Ông Thân Văn S 14.000.000đồng.
Tổng số tiền gốc và lãi bị cáo phải bồi thường cho các bị hại: 1.237.164.560 đồng - 52.940.000đồng (bị cáo đã bồi thường) = 1.184.224.560đ.
[6] Về xử lý vật chứng: Các tài liệu liên quan cần tiếp tục chuyển theo hồ sơ vụ án, cụ thể:
+ 01 phiếu thu tiền bảo hiểm ngày 03/11/2012;
+ 23 giấy chứng nhận, giấy yêu cầu bảo hiểm bảo an;
+ 04 đơn xin vay vốn;
+ 07 bảng tổng hợp thu tiền vốn vay của Ngân hàng Đông Nam Á - chi nhánh H Tĩnh;
+ 15 giấy nộp tiền tại Ngân hàng Đông Nam Á - chi nhánh H Tĩnh;
+ 40 bảng kê thu gốc, lãi của Ngân hàng Agribank;
+ 70 biên lai thu lãi, thu tiền của Ngân hàng chính sách xã hội huyện C;
+ 03 sổ vay vốn kiêm hợp đồng tín dụng của Ngân hàng Agribank chi nhánh huyện C;
+ 04 Hợp đồng tín dụng của Ngân hàng Agribank chi nhánh huyện C;
+ 16 phiếu thu của Ngân hàng Agribank chi nhánh huyện C;
+ 01 chứng từ giao dịch của Ngân hàng Agribank chi nhánh huyện C;
+ 07 thông báo nộp lãi của Ngân hàng Agribank chi nhánh huyện C;
+ 02 biên bản làm việc của Ngân hành Agribank chi nhánh huyện C;
+ 01 công văn thay đổi ngày thu nợ lưu động đề ngày 08/01/2018;
+ 01 vở học sinh bìa màu xanh;
+ 12 tờ giấy có ghi chữ và các con số;
- Tại phiên tòa, bị cáo đề nghị không nhận lại 02 áo sơ mi. Do đó, áp dụng điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:
Tịch thu tiêu hủy:
+ 02 áo sơ mi ngắn tay, phần ngực trái có chữ Vsystem (đã chuyển đến Cục THADS tỉnh H Tĩnh).
[7] Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí HSST và án phí DSST theo giá ngạch. [8] Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án có quyền kháng cáo bản án theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174, điểm g khoản 1 Điều 52, điểm s, v khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Tuyên bố bị cáo Ngô Thị L phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
Xử phạt bị cáo Ngô Thị L – 12 (mười hai) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam (ngày 01/4/2021).
2. Về trách nhiệm dân sự:
- Áp dụng khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự và các Điều 584, 585, 586, 589 Bộ luật Dân sự năm 2015, buộc bị cáo Ngô Thị L phải bồi thường cho các bị hại số tiền đã chiếm đoạt.
Ngô Thị L phải bồi thường số tiền gốc và lãi cho các bị hại cụ thể như sau:
+ Bà Nguyễn Thị H: 100.000.000đồng và 11.455.000đồng tiền lãi. Tổng: 111.455.000đ
+ Bà Ngô Thị H: 20.000.000đồng và 2.052.000đồng tiền lãi. Tổng: 22.052.000đ
+ Bà Thái Thị L: 150.000.000đồng và 35.514.000 đồng tiền lãi. Tổng: 185.514.000đ
+ Bà Nguyễn Thị X: 92.210.000đ và 10.080.000đồng tiền lãi. Tổng: 102.290.000đ
+ Bà Nguyễn Thị T: 120.000.000đồng và 19.800.000đồng tiền lãi. Tổng: 139.800.000đ
+ Bà Đặng Thị T: 150.000.000đồng và 15.444.000đồng tiền lãi. Tổng: 165.444.000đ
+ Bà Nguyễn Thị S: 200.000.000đồng và 20.592.000đồng tiền lãi. Tổng: 220.592.000đ
+ Bà Trần Thị C: 31.000.000đ và 2.800.000đồng tiền lãi. Tổng: 33.800.000đ
+ Chị Nguyễn Thị V: 40.000.000đ và 2.436.000đồng tiền lãi. Tổng: 42.436.000đ.
+ Chị Nguyễn Thị H: 44.000.000đ và 6.391.560đồng tiền lãi. Tổng: 50.391.560đ
+ Bà Nguyễn Thị T: 25.000.000đồng;
+ Bà Thái Thị H: 12.250.000đ;
+ Bà Hoàng Thị H: 9.000.000đ;
+ Bà Nguyễn Thị H: 25.000.000đ;
+ Ông Thân Văn S 14.000.000đồng.
- Áp dụng Điều 213, 246 Bộ luật Tố tụng dân sự: Công nhận sự thỏa thuận giữa bị cáo Ngô Thị L và người bị hại về các giao dịch dân sự. Cụ thể: Bị cáo trả lại cho bà Nguyễn Thị H 30.000.000đồng, trả lại bà Thái Thị L 80.000.000đồng, trả lại cho chị Nguyễn Thị H 30.000.000 đồng.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải chịu thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án và người phải thi hành án có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
3. Về xử lý vật chứng:
- Tiếp tục chuyển theo hồ sơ vụ án:
+ 01 phiếu thu tiền bảo hiểm ngày 03/11/2012;
+ 23 giấy chứng nhận, giấy yêu cầu bảo hiểm bảo an;
+ 04 đơn xin vay vốn;
+ 07 bảng tổng hợp thu tiền vốn vay của Ngân hàng Đông Nam Á - chi nhánh H Tĩnh;
+ 15 giấy nộp tiền tại Ngân hàng Đông Nam Á - chi nhánh H Tĩnh;
+ 40 bảng kê thu gốc, lãi của Ngân hàng Agribank;
+ 70 biên lai thu lãi, thu tiền của Ngân hàng chính sách xã hội huyện C;
+ 03 sổ vay vốn kiêm hợp đồng tín dụng của Ngân hàng Agribank chi nhánh huyện C;
+ 04 Hợp đồng tín dụng của Ngân hàng Agribank chi nhánh huyện C;
+ 16 phiếu thu của Ngân hàng Agribank chi nhánh huyện C;
+ 01 chứng từ giao dịch của Ngân hàng Agribank chi nhánh huyện C;
+ 07 thông báo nộp lãi của Ngân hàng Agribank chi nhánh huyện C;
+ 02 biên bản làm việc của Ngân hành Agribank chi nhánh huyện C;
+ 01 công văn thay đổi ngày thu nợ lưu động đề ngày 08/01/2018;
+ 01 vở học sinh bìa màu xanh;
+ 12 tờ giấy có ghi chữ và các con số;
- Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy:
+ 02 áo sơ mi ngắn tay, phần ngực trái có chữ Vsystem (đã chuyển đến Cục THADS tỉnh H Tĩnh).
4. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và danh mục án phí, lệ phí kèm theo xử buộc bị cáo Ngô Thị L phải nộp 200.000 đồng án phí HSST và 47.526.737 đồng án phí Dân sự theo giá ngạch.
5. Về quyền kháng cáo:
Bị cáo Ngô Thị L, các bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được hoặc niêm yết bản án.
Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 16/2022/HS-ST
Số hiệu: | 16/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hà Tĩnh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 12/05/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về