Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 161/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 161/2023/HS-PT NGÀY 12/12/2023 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 12 tháng 12 năm 2023, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh A xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 153/2023/TLPT-HS ngày 03 tháng 11 năm 2023. Do có kháng cáo của bị cáo Nguyễn Công L đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 30/2023/HS-ST ngày 26 tháng 9 năm 2023 của Toà án nhân dân thị xã T, tỉnh A.

- Bị cáo có kháng cáo:

Nguyễn Công L, sinh ngày 01 tháng 01 năm 1992, tại A. Nơi cư trú: Khu phố F, phường B, thị xã K, tỉnh A; nghề nghiệp: Tài xế; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1965 (chết) và bà Trần Thị S, sinh năm 1965; vợ Lê Thị Hồng H1, sinh năm 1993 (đã ly hôn); con 02 người, sinh năm 2016 và năm 2018; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 22-6-2023 cho đến nay, có mặt tại phiên tòa.

- Ngoài ra, trong vụ án còn có 02 người bị hại không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị, nên không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trong 02 ngày 27-02 và 23-3-2023, Nguyễn Công L có hành vi chiếm đoạt tài sản của 02 người bị hại, cụ thể như sau:

Hành vi 01: Vào khoảng 08 giờ ngày 27-02-2023 tại khu phố C, phường C, thị xã K, Nguyễn Công L mượn xe mô tô biển kiểm soát 62U1-xxxxx của ông Châu Hồng C, đi mua đồ ăn, được ông C đồng ý và giao xe, khoảng 30 phút sau thì L điều khiển xe trên trả lại. Đến khoảng 11 giờ cùng ngày, L đưa ra thông tin giả mượn xe mô tô nêu trên của ông C để đi bán vàng, ông C tin là thật nên đồng ý cho L mượn xe để đi. Khi nhận được xe, L điều khiển xe đi đến nhà trọ K thuộc phường C, thị xã K chở Phạm Thị Mỹ C1 để cùng nhau đi qua Casino bên Vương quốc Campuchia, cầm cố xe được 10.000.000 đồng, dùng vào việc đánh bạc và tiêu xài cá nhân hết. Sau đó, ông C biết được sự việc, nên tự trả tiền và nhận lại xe rồi đến cơ quan Công an tố cáo L.

Tang vật tạm giữ gồm: 01 xe môtô biển kiểm soát: 62U1-xxxxx.

Tại bản kết luận định giá tài sản số: 08/KL-HĐ-ĐGTS ngày 15-3-2023 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự thị xã K kết luận: 01 xe mô tô Honda loại Sonic 150R, màu trắng đỏ đen; biển kiểm soát: 62U1-xxxxx có giá trị Lành lại là 28.700.000 đồng.

Hành vi 02: Vào khoảng 22 giờ 30 phút ngày 22-3-2023, L đặt xe trên Grabcar (dịch vụ xe hơi theo hợp đồng điện tử) để đi từ xã X, huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh đến xã T, thị xã K nhằm mục đích thăm đám tang người thân của bạn. Đến khoảng 4 giờ 30 phút ngày 23-3-2023, ghé quán nước nghỉ mệt, L bảo tài xế chở vào nhà ông Nguyễn Văn X là người có quen biết trước với L. Tại đây, do không có tiền, L thấy xe mô tô biển kiểm soát 62T1-xxxxx của ông X, nên nảy sinh ý định chiếm đoạt. Khoảng 7 giờ 30 phút cùng ngày, L đưa ra thông tin giả cần mượn xe của ông X đi công chuyện và bảo tài xế ở lại chờ, làm ông X tin tưởng giao xe. Khi nhận được xe, L điều khiển xe đến nhà trọ T, thuộc khu phố C, phường A, thị xã K chở C1 cùng đi qua Casino bên Vương quốc Campuchia cầm cố xe được 7.000.000 đồng tiêu xài và đánh bạc hết. Sau đó bỏ trốn, đến ngày 02-5-2023 L đến cơ quan Công an đầu thú.

Tại bản kết luận định giá tài sản số: 09/KL-HĐ-ĐGTS ngày 17-4-2023 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự thị xã K kết luận: 01 xe mô tô Honda loại Super Dream, màu nâu, xe đang sử dụng và lưu hành; biển kiểm soát: 62T1- xxxxx, tài sản đã hết thời gian khấu hao, có giá trị là 3.000.000 đồng.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 30/2023/HS-ST ngày 26-9-2023 của Tòa án nhân dân thị xã T, tỉnh A, đã xét xử:

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Công L phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Căn cứ: Khoản 1 Điều 174; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 và Điều 50 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Công L 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giam 22-6-2023.

Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn tuyên về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí, quyền và thời hạn kháng cáo đối với những người tham gia tố tụng.

Sau khi xét xử sơ thẩm: Ngày 04-10-2023, bị cáo Nguyễn Công L kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm: Bị cáo Nguyễn Công L giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh A phát biểu quan điểm giải quyết vụ án như sau:

Về thủ tục kháng cáo: Bị cáo Nguyễn Công L kháng cáo trong thời hạn theo quy định của pháp luật nên Tòa án nhân dân tỉnh A thụ lý vụ án giải quyết theo thủ tục phúc thẩm là có căn cứ.

Về nội dung: Qua các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và xét hỏi tại phiên tòa phúc thẩm, xét thấy: Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên bố bị cáo Nguyễn Công L phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 174 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật, không oan cho bị cáo. Mức hình phạt mà cấp sơ thẩm đã áp dụng đối với bị cáo là phù hợp. Bị cáo kháng cáo nhưng không cung cấp thêm tình tiết giảm nhẹ mới, nên không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên bản án sơ thẩm về hình phạt đối với các bị cáo.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Các bị cáo không tranh luận.

Lời nói sau cùng: Bị cáo mong được Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, tạo điều kiện cho bị cáo sớm trở về hòa nhập cộng đồng và làm người công dân có ít cho xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục kháng cáo: Bị cáo Nguyễn Công L kháng cáo đúng quy định tại các Điều 331, 332 và 333 Bộ luật Tố tụng hình sự, nên Tòa án nhân dân tỉnh A thụ lý vụ án để giải quyết theo thủ tục phúc thẩm là có căn cứ.

[2] Về nội dung vụ việc và yêu cầu kháng cáo của bị cáo:

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Công L khai nhận: Xuất phát từ không có tiền tiêu xài cá nhân, nên các ngày 27-02-2023 và 23-3-2023, bị cáo L đã đưa ra thông tin không có thật để nhằm làm cho ông Châu Hồng C và ông Nguyễn Văn X là chủ sở hữu của 02 xe mô tô biển kiểm soát 62U1-xxxxx và 62T1-xxxxx tin tưởng giao xe cho bị cáo mượn làm phương tiện đi công việc rồi sẽ trả lại. Nhưng thực tế, sau khi nhận được xe bị cáo điều khiển xe đi qua Casino bên Vương quốc Campuchia cầm cố lấy tiền tiêu xài và đánh bạc.

Xét, lời khai nhận của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ mà nội dung án sơ thẩm đã nêu. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên bố bị cáo L phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 174 Bộ luật Hình sự, là xét xử đúng người, đúng tội, không oan cho bị cáo.

Qua xem xét nhân thân, tính chất, mức độ hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra và cùng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Xét thấy, Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng đối với bị cáo để tuyên phạt mức án như trên là thỏa đáng. Bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng không có cung cấp thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới, nên không có căn cứ để xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo như đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa đề nghị.

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Công L. Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 30/2023/HS-ST ngày 26 tháng 9 năm 2023 của Tòa án nhân dân thị xã T, tỉnh A, về hình phạt đối với bị cáo L.

[3] Về án phí phúc thẩm: Căn cứ các Điều 135 và 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Nguyễn Công L phải chịu 200.000 đồng án phí do kháng cáo không được chấp nhận.

[4] Các quyết định khác của án sơ thẩm không kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật thi hành kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự; Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Công L.

Giữ nguyên bản án sơ thẩm số 30/2023/HS-ST ngày 26-9-2023 của Toà án nhân dân thị xã T, tỉnh A về hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Công L.

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Công L phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Áp dụng: Khoản 1 Điều 174; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 và Điều 50 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Công L 02 (hai) năm tù. Thời gian thi hành án phạt tù được tính từ ngày 22-6-2023.

Áp dụng: Điều 347 Bộ luật Tố tụng hình sư, tiếp tục tạm giam bị cáo Nguyễn Công L 45 (bốn mươi lăm) ngày kể từ ngày tuyên án phúc thẩm 12-12- 2023 để đảm bảo thi hành án.

2. Về án phí: Áp dụng các Điều 135 và 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

thẩm.

Buộc bị cáo Nguyễn Công L phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc 3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

31
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 161/2023/HS-PT

Số hiệu:161/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Long An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về