Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 127/2021/HSST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BN ÁN 127/2021/HSST NGÀY 22/04/2021 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 22/04/2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 475/2020/TLST-HS ngày 26 tháng 11 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 10/2020/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 01 năm 2021 đối với Bị cáo:

Họ và tên: Lưu Quang D, sinh năm 19XX. Giới tính: Nam; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: phường Mỹ Đình x, quận Nam Từ L, thành phố Hà Nội; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 10/10; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông: Lưu Quang Đ (Đã chết) và con bà: Vũ Thị Tuyết M; Vợ: Vũ Thị L; Có 03: Con lớn nhất sinh 1985, con nhỏ sinh năm 2004; Tiền án; tiền sự: Chưa.

Nhân thân:

* Ngày 11/01/2001, Công an phường Yên Hòa xử lý hành chính về hành vi gây rối trật tự công cộng (Đã được xóa).

* Ngày 06/9/2006, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xử phạt 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo thời hạn thử thách là 18 tháng kể từ ngày tuyên án, về tội mua bán tài liệu của cơ quan nhà nước (Đã được xóa án tích).

Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 20/04/2020. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 1, Công an thành phố Hà Nội, số giam 2309V1/ Buồng 9.

Luật sư bào chữa cho bị cáo D: Ông Đỗ Xuân Đ, Công ty luật trách nhiệm hữu hạn Lion, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội (Có mặt tại phiên tòa).

Bị hại:

Anh Phan Văn P, sinh năm 1986 (Có mặt).

NĐKHKTT: Khối 10, thị trấn Quỳ H, huyện Quỳ H, tỉnh Nghệ An.

Người bảo vệ quyền và lợi ích cho anh P: Ông Nguyễn Thiện H, ông Nguyễn Quang T, Công ty luật trách nhiệm hữu hạn Việt T, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội (Ông Trung có mặt tại phiên tòa).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Ông Phan Tùng S, sinh năm 1963 (Bố anh Phú) (Có mặt tại phiên tòa). NĐKHKTT: Khối 10, thị trấn Quỳ H, huyện Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ An.

Người làm chứng:

Ông Phan Văn Th, sinh năm 1968; (Là em trai ông S). (Có mặt). Trú tại: Khối 10, thị trấn Qùy H, huyện Qùy H, tỉnh Nghệ An 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bị cáo Lưu Quang D quen biết anh Phan Văn P từ năm 2015 vì anh Phú thuê nhà bị cáo D để kinh doanh. Biết anh Phú đang có nhu cầu xin việc làm nên bị cáo D tự giới thiệu mình có mối quan hệ xin được cho anh Phú vào làm lái xe tại Bộ Tư lệnh Cảnh sát cơ động - Bộ Công an nhưng anh Phú phải đưa cho bị cáo D số tiền 500.000.000 đồng để chi phí ngoại giao, bị cáo D hứa xin vào biên chế chứ không phải làm việc theo dạng hợp đồng. Do tin tưởng bị cáo D có thể xin việc cho mình là thật nên ngày 26/3/2015 anh Phú cùng bố đẻ là ông Phan Tùng S, ông Phan Văn T và chị Phan Thị Bảo T đến nhà bị cáo D để đặt vấn đề nhờ bị cáo D xin việc làm cho anh Phú. Bị cáo D hứa xin được việc cho anh Phú vào quý 3 năm 2015. Gia đình ông Sơn tưởng thật nên giao số tiền 500.000.000 đồng cùng một bộ hồ sơ xin việc của anh Phú cho bị cáo D. Sau khi nhận tiền, anh Phú viết một giấy vay tiền với nội dung “Lưu Quang D vay của ông Phan Tùng Sơn số tiền 500.000.000 đồng để giải quyết công việc gia đình, hẹn anh Sơn quý 3 năm 2015, tôi gửi lại anh đủ số tiền trên” bị cáo D ký người nhận tiền và ông Phan Tùng Sơn ký người giao tiền. Sau khi nhận số tiền và bộ hồ sơ xin việc cho anh Phú, bị cáo D đã chiếm đoạt rồi sử dụng cho cá nhân hết. Đến nay, anh Phú vẫn không được đi làm như bị cáo D đã hứa. Anh Phú yêu cầu bị cáo D trả lại số tiền 500.000.000 đồng đã nhận và đề nghị xử lý bị cáo D theo quy định của pháp luật. Quá trình điều tra bị cáo Lưu Quang D khai: Khi biết anh P có nhu cầu xin việc làm ổn định thì bị cáo D nói chuyện với Phí Tiến H (Sinh năm 1975, ĐKNKT tổ dân phố 8, đường Tu Hoàng, phường Phương C, quận Nam Từ L, Hà Nội, hiện không xác định được nơi ở) thì Hà nói là mình có quan hệ ở Bộ Công an và bị cáo D nhờ xin cho anh Phú làm lái xe Bộ Tư lệnh Cảnh sát cơ động - Bộ Công an với chi phí khoảng 450.000.000 đồng. Hà nói nếu anh Phú vẫn muốn xin việc làm thì yêu cầu đưa số tiền 500.000.000 đồng và chuẩn bị bộ hồ sơ xin việc, số tiền không phải chi phí thì bị cáo D và Hà cùng nhau ăn chia. Ngày 26/3/2015, bị cáo D nhận của ông Sơn và anh Phú số tiền 500.000.000 đồng cùng bộ hồ sơ xin việc.

Chiều cùng ngày bị cáo D đưa cho Hà số tiền 410.000.000 đồng, số tiền còn lại bị cáo D cất giữ. Hà nói với bị cáo D là nếu thiếu thì sẽ lấy tiếp, còn thì chia nhau. Hà nhận tiền và viết một giấy vay tiền với nội dung “Phí Tiến Hà vay của anh D số tiền 410.000.000 đồng để giải quyết công việc riêng. Tôi hẹn đến quý 3 năm 2015 sẽ hoàn trả đầy đủ”. Việc Hà và bị cáo D thỏa thuận về chi phí xin việc cho anh Phú và giao tiền cho nhau thì bị cáo D không thông báo cho Phú biết. Do không xin được việc cho anh Phú nên ngày 26/8/2016, Hà trả lại cho bị cáo D số tiền 150.000.000 đồng. Bị cáo D liên hệ để trả ông Sơn và anh Phú số tiền 90.000.000 đồng nhưng ông Sơn và anh Phú nói nếu trả đủ số tiền 500.000.000 đồng mới nhận. Do vậy, bị cáo D đã chi tiêu sử dụng cá nhân hết số tiền 240.000.000 đồng mà không trả lại cho ông Sơn và anh Phú.

Ngày 30/11/2017, anh Phan Văn P giao nộp:

* 01 Giấy vay tiền đề ngày 26/3/2015 với nội dung Lưu Quang D vay của Phan Tùng Sơn số tiền 500.000.000 đồng để giải quyết việc gia đình (Bản chính).

* 01 Bản cam kết đề ngày 30/8/2016 đề người viết là bị cáo Lưu Quang D vay của Phan Tùng Sơn số tiền 500.000.000 đồng để lo việc gia đình và cam kết đến ngày 30/9/2016 sẽ trả hết số tiền nợ cho ông Sơn (Bản chính).

Bản kết luận gm định số: 856A/C54-P5 ngày 28/02/2018 của Viện Khoa học Hình sự - Tổng Cục Cảnh sát kết luận:

Chữ ký, chữ viết dưới mục “Người nhận tiền” trên Giấy vay tiền đề ngày 26/3/2015 và chữ ký, chữ viết trên Bản cam kết đề ngày 30/8/2016 là chữ viết, chữ ký của bị cáo Lưu Quang D.

Ngày 25/5/2020, bà Vũ Thị L vợ của bị cáo Lưu Quang D giao nộp: 01 Quyển sổ màu đen kích thước (18x25) cm, trong gần cuối của Quyển sổ có 01 tờ ghi nội dung Giấy vay tiền đề ngày 26/3/2015. Phí Tiến Hà (Sinh năm 1971, địa chỉ nhà 301, đường K3, phường Cổ Nhuế 2, quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội) có vay của anh D địa chỉ tổ 49, phường Yên Hòa, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội số tiền là 410.000.000 đồng, để giải quyết công việc riêng. Tôi hẹn hết quý 3/2015 sẽ hoàn trả đầy đủ. Đoạn góc dưới bên trái Giấy vay tiền viết: Ngày 26/8/2016, tôi là Phí Tiến Hà có vay số tiền 410 triệu đồng, nay trả lại anh D 150 triệu đồng, số còn lại sẽ trả anh tiếp.

Bản kết luận gm định số: 6287/KLGĐ-PC09-Đ4 ngày 24/7/2020 của Phòng Kỹ thuật Hình sự, Công an thành phố Hà Nội kết luận:

Chữ ký, chữ viết trên Giấy vay tiền đề ngày 26/3/2015 và ngày 26/8/2016 là chữ viết, chữ ký của Phí Tiến Hà.

Công văn s: 408/K202-P2 ngày 28/3/2018 của Cục Chính trị - Bộ Tư lệnh Cảnh sát cơ động xác định: Từ tháng 3/2016 đến hết năm 2016, Bộ Tư lệnh Cảnh sát cơ động không tiếp nhận hồ sơ nào xin tuyển lái xe hoặc tuyển thực hiện nghĩa vụ trong Công an nhân dân tại Bộ Tư lệnh cảnh sát cơ động, của công dân mang tên Phan Văn Phú, sinh năm 1986, hộ khẩu thường trú: Thị trấn Quỳ Hợp, huyện Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ An.

Đi với Phí Tiến H: Lời khai của Hà từ ngày 22/12/2016 đến ngày 27/3/2017 (03 lời khai) thể hiện, từ năm 1999 đến năm 2001, Hà có tham gia nghĩa vụ Công an tại Trại giam Hải Phòng. Năm 2015, Hà có nhận lời hỏi giúp anh Phú để xin vào lực lượng vũ trang. Tuy nhiên, do bận rộn việc kinh doanh nên Hà quên không hỏi giúp. Hà không bàn bạc, thỏa thuận gì với bị cáo Lưu Quang D về việc xin việc cho anh Phú. Số tiền 410.000.000 đồng Hà nhận của bị cáo D vào ngày 26/3/2015 là tiền bị cáo D cho Hà vay để kinh doanh. Hà đã trả lại cho bị cáo D số tiền 150.000.000 đồng. Từ ngày 16/02/2020, Hà không có mặt tại nơi đăng ký hộ khẩu tại: Thôn Đại Đồng, xã Đông Á, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình và chỗ ở tại tổ dân phố 8, Tô Hoàng, phường Phương Canh, quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội và số: 87, thôn Lai Xá, xã Kim Chung, huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội (Đã lập 08 biên bản vắng nhà). Do không xác định Hà đang làm gì, ở đâu để ghi lời khai và thực hiện việc đối chất với bị cáo Lưu Quang D làm rõ hành vi của Hà. Với tài liệu chứng cứ thu thập có trong hồ sơ vụ án chưa đủ căn cứ xác định Hà đồng phạm với bị cáo D về hành vi lừa đảo chiếm đoạt số tiền 500.000.000 đồng của anh Phan Văn Phú. Vì vậy, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Hà Nội đã ra Quyết định tách vụ án hình sự số: 89/QĐ-PC01-Đ3 ngày 29/7/2020, liên quan đến hành vi Phí Tiến Hà nhận số tiền 410.000.000 đồng từ bị cáo Lưu Quang D thuộc vụ án hình sự số: 400 ngày 29/11/2019 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội tiếp tục điều tra, xác minh, làm rõ để xử lý sau.

2. Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo Lưu Quang D bồi thường số tiền 500.000.000 đồng theo yêu cầu của anh Phan Văn P. Vật chứng vụ án: Không.

Tại bản Cáo trạng s: 416/CT-VKS HN-P3 ngày 09/11/2020 Viện kiểm sát nhân thành phố Hà Nội đã truy tố bị cáo Lưu Quang D về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản; Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm a khoản 4 Điều 174 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Đi diện Vin Kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội giữ quyền công tố tại phiên toà, sau khi phân tích nội dung, tính chất của vụ án, giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Lưu Quang D, đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm a khon 4 Điều 174; Điểm s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38, Điều 48 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Xử phạt bị cáo Lưu Quang D: Từ 09 đến 10 năm tù .

Trả lại anh Phú số tiền 500.000.000 đồng theo quy định của pháp luật dân sự.

Lut sư bào cha cho bị cáo D: Đồng nhất với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát, nhưng đề nghị áp dụng hình phạt giảm nhẹ hơn mức án cho Bị cáo mà Viện kiểm sát đề nghị vì Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, là lao động chính trong gia đình đang nuôi hai con nhỏ tuổi đi học, bố Bị cáo là người có công với cách mạng, vợ bị cáo khắc phục một phần hậu quả tại phiên tòa nhưng Bị hại không nhận nên áp dụng các điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51, Điều 54 của Bộ luật hình sự.

Lut sư bào cha cho Bị hại: Đồng nhất với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát, nhưng đề nghị áp dụng hình phạt Bị cáo cao hơn mức án mà Viện kiểm sát đề nghị vì Bị cáo chưa thực sự thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải không khắc phục hậu quả nên không áp dụng các điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51, Điều 54 của Bộ luật hình sự như luật sư của Bị cáo đề nghị.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi và tội danh của Bị cáo: Lời khai nhận của bị cáo Lưu Quang D tại phiên tòa phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử xét thấy có đủ căn cứ để kết luận: Bị cáo u Quang D quen biết anh Phan Văn Phú từ năm 2015 vì anh Phú thuê nhà của bị cáo D để kinh doanh. Biết anh Phú muốn xin việc làm ổn định, mặc dù bị cáo D không có chức năng, không có khả năng xin việc làm nhưng bị cáo D tự giới thiệu mình có mối quan hệ ở Bộ Công an, có thể xin được cho anh Phú vào làm lái xe tại Bộ Tư lệnh Cảnh sát cơ động - Bộ Công an với chi phí số tiền 500.000.000 đồng. Bị cáo D hứa hẹn sau khi anh Phú giao tiền sẽ xin cho anh Phú được đi làm vào quý III năm 2015. Tưởng bị cáo D xin việc làm cho mình là thật nên ngày 26/3/2015 anh Phú cùng bố đẻ là ông Phan Tùng Sơn đến nhà và giao số tiền 500.000.000 đồng cùng một bộ hồ sơ xin việc của anh Phú cho bị cáo D. Sau khi nhận số tiền bị cáo D chiếm đoạt sử dụng cá nhân hết. Anh Phú vẫn không được đi làm như bị cáo D đã hứa và số tiền bị cáo D nhận của anh Phú đã chi tiêu cá nhân hết. Người bị hại là anh Phan Văn Phú yêu cầu bị cáo D phải bồi thường số tiền 500.000.000 đồng và đề nghị xử lý bị cáo D theo quy định của pháp luật.

Hành vi nêu trên của bị cáo Lưu Quang D đã phạm vào tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản; Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm a khoản 4 Điều 174 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Điều 174. Tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản:

1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

………………..

4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:

a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;

...........................

Hành vi của bị cáo Lưu Quang D là nguy hiểm cho xã hội, bằng hành vi gian dối ngay từ đầu để chiếm đoạt tài sản thông qua xin việc cho anh Phú vào làm lái xe tại Bộ Tư lệnh Cảnh sát cơ động - Bộ Công an làm mất trật tự tại địa phương, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội, gây bức xúc cho dư luận. Bản thân Bị cáo là người có nhận thức pháp luật ở mức độ nhất định nhưng chưa có ý thức tu dưỡng nên đã phạm tội. Vì vậy cần phải có biện pháp xử lý nghiêm khắc đối với Bị cáo. Tuy nhiên khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử cần xem xét các tình tiết sau đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với Bị cáo: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bố bị cáo có công với cách mạng theo điểm s khoản 1,2 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[2] Căn cứ vào các quy định của Bộ luật hình sự; Căn cứ tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; Căn cứ nhân thân người phạm tội, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng hình phạt tù cách ly Bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian dài mới đủ tác dụng răn đe giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

Vtrách nhiệm dân sự: Bị cáo phải hoàn trả Bị hại số tiền là: 500. 000.000 đồng.

[3] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có khả năng về tài chính và phải chấp hành hình phạt tù nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với Bị cáo.

[4] Về vật chứng vụ án: Các tài liệu liên quan đến việc phạm tội của Bị cáo được lưu giữ trong hồ sơ vụ án.

[5] Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí Hình sự và án phí Dân sự và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

[6] Các cơ quan tiến hành tố tụng ca thành phố Hà Nội thc hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về thẩm quyền và các quy định khác về điều tra, truy tố. Kết luận điều tra của Công an thành phố Hà Nội, Quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội, áp dụng với Bị cáo là đúng, tương xứng với hành vi phạm tội của Bị cáo và phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Lưu Quang D phạm tội “ Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Căn cứ vào điểm a khoản 4 Điều 174, điểm s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 54; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt: Bị cáo Lưu Quang D 11 (Mười một ) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 20/04/2020.

Về xử lý vt chứng: Cơ quan điều tra đã lưu trữ trong hồ sơ vụ án.

Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo Lưu Quang D phải trả anh Phan Văn Phú là: 500.000.000 đng (Năm trăm triệu đồng).

Sau khi án có hiệu lực pháp luật, nếu bị cáo D không thi hành khoản tiền trả lại cho anh Phú bị cáo D còn phải chịu mức lãi suất cơ bản do ngân hàng Nhà nước công bố đối với số tiền chậm thi hành án.

Trong trường hợp Bản án, Quyết định được thi hành theo Điều 2 của Luật thi hành án dân sự người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và Điều 9 của Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự”.

Về án phí: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án, Bị cáo D phải nộp 200.000 đồng tiền án phí Hình sự sơ thẩm và 24.000 000 đồng (Hai mươi tư) triệu đồng án phí Dân sự sơ thẩm để sung vào ngân sách Nhà nước.

Quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331; Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự bị cáo Lưu Quang D, Bị hại có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt, có quyền kháng cáo về những vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

391
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 127/2021/HSST

Số hiệu:127/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về