TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 3, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 108/2023/HS-ST NGÀY 21/12/2023 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
Ngày 21 tháng 12 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận X Thành phố H xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 91/2023/TLST-HS ngày 04 tháng 10 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 101/2023/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 11 năm 2023 và Quyết định hoãn phiên tòa số 411/2023/QĐST-HS ngày 29/11/2023 đối với các bị cáo:
1/ Lại Ngọc Đoan T, sinh năm 1991; tại Thành phố H; Hộ khẩu thường trú: A12 khu dân cư T, khu phố B, phường P, Quận G, Tp. H; nơi cư trú: A N, Phường B, Quận G, Tp. H; nghề nghiệp: nội trợ; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nữ; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lại Văn K và bà Nguyễn Thị C; có chồng Bùi Quốc K1 và 02 con, lớn nhất sinh năm 2021, nhỏ nhất sinh năm 2023; tiền án: không; tiền sự: không; Nhân thân: ngày 08/9/2023, Tòa án nhân dân Tỉnh Thừa Thiên Huế xử phạt 02 (hai) năm 03 (ba) tháng tù giam về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo bản án hình sự sơ thẩm số 74/2023/HS-ST; Bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” từ ngày 19/12/2022; (bị cáo có mặt).
2/ Nguyễn Văn T1, sinh năm 2002; tại Thành phố H; Hộ khẩu thường trú: D H, khu phố B, Phường B, Quận G, Tp . H; nghề nghiệp: không ; trình độ văn hóa: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn S (đã chết) và bà Đào Thị Ngọc G; tiền án: không; tiền sự: không; Nhân thân: ngày 08/9/2023, Tòa án nhân dân Tỉnh Thừa Thiên Huế xử phạt 02 (hai) năm tù giam về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo bản án hình sự sơ thẩm số 74/2023/HS-ST. Bị cáo bị tạm giam từ ngày 07/9/2022, hiện đang tạm giam tại Trại giam Đ. (bị cáo có mặt).
3/ Nguyễn Hoàng K2 sinh năm 2001; tại Thành phố H; Hộ khẩu thường trú: A N, Phường A, Quận H, Tp . H; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn M (đã chết) và bà Nguyễn Ngọc T2; tiền án: không; tiền sự: không. Bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” từ ngày 13/3/2023; (bị cáo có mặt).
4/ Lý Mỹ T3, sinh năm 2003; tại Thành phố H; Hộ khẩu thường trú: B Phó C, Phường F , Quận A, Tp . H; nơi cư trú: 24/19/38 T, khu phố G, Phường B, Quận B, Tp . H; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nữ; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lý Quốc T4 và bà Tràn Bích L; tiền án: không; tiền sự: không. Bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” từ ngày 13/3/2023; (bị cáo có mặt).
5/ Lương Thường Q, sinh ngày 07/11/2005; tại Thành phố H; Hộ khẩu thường trú: 1 M, Phường A, Quận H, Tp. H; nghề nghiệp: không ; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Hoa; giới tính: nam; tôn giáo: phật; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lương Tô H và bà Voòng Lần D (đã chết); tiền án: không; tiền sự: không. Bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” từ ngày 13/3/2023; (bị cáo có mặt).
6/ Trương Nguyễn Thị H1, sinh năm 1996; tại Thành phố H; Hộ khẩu thường trú: B H, Phường A , Quận H, Tp . H; nơi cư trú: 35/11 L, Tổ A, ấp P, xã P, Huyện C, Tỉnh Long An; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nữ; tôn giáo: phật; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trương Văn H2 và bà Nguyễn Thị H3; tiền án: không; tiền sự: không. Bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” từ ngày 13/3/2023; (bị cáo có mặt).
Người bị hại: 1/ Ông Nguyễn Minh H4, sinh năm 1994. (vắng mặt) Hộ khẩu thường trú: A H, Phường C, Thành phố Đ, Tỉnh Lâm Đồng Nơi cư trú: 200 đường C, Phường A, Quận A,TP . H 2/ Ông Lê Duy L1, sinh năm 1982. (vắng mặt)
Nơi cư trú: A C, Phường D, Quận H, TP . H Người giám hộ của bị cáo Lương Thường Q có: Ông Lương Tô H, sinh năm 1969 là cha ruột, (có mặt) Hộ khẩu thường trú: 1 M, Phường A, Quận H, Tp . H.
Người bào chữa cho bị cáo Lương Thường Q: Luật sư Lâm Quốc V1 thuộc Đoàn luật sư Thành phố H; (có mặt) Địa chỉ: Văn Phòng L2, số A P, phường A, Quận B, Thành phố H.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng tháng 10/2021, Lại Ngọc Đoan T thành lập Công ty TNHH T7 có trụ sở tại địa chỉ số F đường số A, ấp E, khu dân cư P, xã P, huyện B, công ty kinh doanh về lĩnh vực bán hàng Online đồ gia dụng. Trong quá trình hoạt động thì Công ty của T làm ăn thua lỗ nên khoảng tháng 8/2022 T và các nhân viên của Công ty gồm Nguyễn Văn T1, Nguyễn Hoàng K2, Lý Mỹ T3, Lương Thường Q và Trương Nguyễn Thị H1 bàn bạc với nhau hoạt động lừa đảo chiếm đoạt tài sản của khách hàng. T là người phân công nhiệm vụ cho nhân viên giả danh là nhân viên ngân hàng TMCP Đ1 (B) gọi điện cho khách hàng tư vấn vay tiền trả góp của ngân hàng B, khi khách tin tưởng và đồng ý khoản vay thì nhóm của T giả vờ yêu cầu đóng các khoản phí như phí làm hồ sơ, phí bảo hiểm khoản vay, phí nâng điểm tín dụng, phí giải ngân để chiếm đoạt. Nhóm của T cung cấp số tài khoản 39793xxx đứng tên Lê Thị Tuyết N1 mở tại ngân hàng TMCP P hoặc tài khoản số 66886xxx đứng tên Lại Ngọc Đoan T mở tại ngân hàng TMCP P để khách hàng chuyển tiền đóng phí vào.
Để tìm khách hàng, hàng ngày T lên mạng xã hội tìm mua thông tin cá nhân và số điện thoại của khách hàng rồi cung cấp cho các nhân viên để gọi điện cho khách hàng. Mỗi nhân viên được T trang bị 01 điện thoại bàn để gọi điện cho khách hàng, T thỏa thuận trả cho nhân viên là 5.000.000 đồng/01 tháng, nhân viên nào tư vấn chiếm đoạt được tiền thì sẽ được ăn chia theo tỷ lệ 1/6 trên tổng số tiền chiếm đoạt được. Với phương thức, thủ đoạn như trên thì T cùng đồng bọn đã thực hiện 02 vụ lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại Quận C.
Vụ thứ 1: Vào sáng ngày 9/8/2022, T đưa danh sách kèm theo số điện thoại của khách hàng cho Lương Thường Q. Sau đó, Q gọi điện cho anh Lê Duy L1 tự xưng là nhân viên ngân hàng B, tư vấn cho anh L1 vay số tiền là 50.000.000 đồng của ngân hàng B, trả góp trong vòng 03 năm. Sau khi anh L1 đồng ý vay thì Q yêu cầu anh L1 chuyển số tiền là 1.850.000 đồng vào tài khoản của Lê Thị Tuyết N1 để đóng phí bảo hiểm vay, do tin lời anh L1 đến ngân hàng B chuyển số tiền 1.850.000 đồng vào tài khoản của Lê Thị Tuyết N1 theo yêu cầu của Q. Đến khoản 14 giờ cùng ngày, Q đưa số điện thoại của L1 cho Trương Nguyễn Thị H1 để H1 tiếp tục gọi điện cho anh L1 tự xưng là nhân viên Ngân hàng B và sau đó sử dụng tài khoản Zalo tên “Minh T5” kết bạn với anh L1 yêu cầu anh L1 chuyển số tiền 5.217.000 đồng vào tài khoản Lê Thị Tuyết N1 để đóng trước tiền góp tháng 9, tháng 10 và tháng 11 của khoản vay thì anh L1 đồng ý và đã chuyển cho nhóm T, H1, Q là 7.067.000 đồng.
Vụ thứ 2: Vào ngày 17/8/2022, T đưa danh sách kèm theo số điện thoại của khách hàng cho Nguyễn Hoàng K2. Sau đó, K2 gọi điện cho Nguyễn Minh H4 tự xưng là nhân viên Ngân hàng B tư vấn cho H4 khoản vay số tiền 60.000.000 đồng. Sau khi H4 đồng ý vay thì K2 sử dụng tài khoản Zalo tên “Hải Yến” kết bạn nhắn tin với H4 và yêu cầu Hoàng chuyển số tiền 2.830.000 đồng vào tài khoản của Lê Thị Tuyết N1 để đóng phí bảo hiểm khoản vay. Sau khi H4 chuyển tiền xong thì K2 đưa số điện thoại của H4 cho Lý Mỹ T3 tiếp tục gọi điện lừa đảo H4, T3 gọi điện thoại cho H4 tự xưng là nhân viên Ngân hàng B và yêu cầu Hoàng chuyển số tiền 4.174.000 đồng vào tài khoản của Lê Thị Tuyết N1 để đóng trước tiền góp tháng 9 và tháng 10 của khoản vay. Sau khi H4 chuyển số tiền theo yêu cầu của T3 vào tài khoản của Lê Thị Tuyết N1 thì K2 đưa số điện thoại của H4 cho Nguyễn Văn T1 để T1 tiếp tục gọi điện và sử dụng tài khoản Zalo tên “Minh C1” kết bạn với H4 rồi viện lý do chưa nhận được tiền góp tháng 9 và tháng 10 nên yêu cầu Hoàng chuyển lại số tiền 4.174.000 đồng vào tài khoản của Lê Thị Tuyết N1. Sau đó, T3 sử dụng tài khoản Zalo tên “Trần Huyền T6” kết bạn với H4, sau khi kết bạn thì K2, T3 và T1 thay phiên nhau nhắn tin cho H4 tạo ra nhiều lý do vướng mắc yêu cầu H4 tiếp tục chuyển tiền vào tài khoản của Lại Ngọc Đoan T. Do tin người, anh H4 đã chuyển khoản 09 theo lần yêu cầu K2, T1, T3 với tổng số tiền là 68.778.000 đồng. Trong đó, chuyển đến tài khoản của Lê Thị Tuyết N1 03 lần với tổng số tiền 11.178.000 đồng, chuyển vào tài khoản của Lại N Đoan Trang 06 lần với số tiền 57.600.000 đồng.
Tại cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Q1, các bị can Lại Ngọc Đoan T, Nguyễn Hoàng K2, Lý Mỹ T3, Lương Thường Q và Trương Nguyễn Thị H1 đã khai nhận toàn bộ hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của Nguyễn Minh H4 và anh Lê Duy L1 như trên.
Vật chứng án: Các tài liệu sao kê chuyển khoản, nội dung trao đổi Zalo giữa các bên được trích xuất lưu theo hồ sơ.
Số tiền 30.000.000 đồng (bị hại Nguyễn Minh H4 tự nguyện giao nộp cho Cơ quan điều tra, đã nhập kho bạc nhà nước).
Yêu cầu dân sự: các bị hại Nguyễn Minh H4 và Lê Duy L1 đã nhận bồi thường và không yêu cầu gì.
Tại bản cáo trạng số 86/CT-VKS-HS ngày 21/9/2023, Viện kiểm sát nhân dân Quận X đã truy tố các bị cáo Lại Ngọc Đoan Trang, Nguyễn Hoàng Khang,Nguyễn Văn T1,Lý Mỹ T3 về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a, c khoản 2 Điều 174 Bộ luật Hình sự; các bị cáo Lương Thường Q và Trương Nguyễn Thị H1 về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 2 Điều 174 Bộ luật Hình sự Tại phiên tòa hôm nay:
Các bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng đã nêu. Lời nói sau cùng các bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
Người bị hại: ông Nguyễn Minh H4 và ông Lê Duy L1 (vắng mặt tại phiên tòa).
Người giám hộ của bị cáo Lương Thường Q có: Ông Lương Tô H, sinh năm 1969 là cha ruột bị cáo xin xem xét giảm nhẹ hình phạt cho Q (có mặt tại phiên tòa).
Người bào chữa cho bị cáo Lương Thường Q: Luật sư Lâm Quốc V1 đề nghị Hội đồng xét xử xem xét những tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo Q theo điểm s khoản 1, 2 Điều 51, Điều 91, Điều 101; điểm a khoản 2 Điều 174 Bộ luật hình sự để bị cáo sớm có điều kiện trở về đi làm phụ giúp gia đình, sống có ích cho xã hội và thống nhất cáo trạng của Viện kiểm sát.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận X giữ nguyên cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:
Áp dụng điểm a,c khoản 2 Điều 174; Điều 17; Điều 58; điểm b, s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Lại N Đoan T từ 04 (bốn) năm đến 04 (bốn) năm 06 (sáu) tháng tù giam;
Áp dụng điểm a,c khoản 2 Điều 174; Điều 17; Điều 58; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; khoản 1 Điều 56 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T1 từ 03 (ba) năm đến 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù giam; Tổng hợp hình phạt đã tuyên với hình phạt 02 (hai) năm tù giam tại bản án hình sự sơ thẩm số 74/2023/HS-ST ngày 08/9/2023 của Tòa án nhân dân Tỉnh Thừa Thiên Huế. Buộc bị cáo Nguyễn Văn T1 phải chấp hành một hình phạt chung cho cả hai bản án từ 05 (năm) năm đến 05 (năm) 06 (sáu) tháng tù giam;
Áp dụng điểm a,c khoản 2 Điều 174; Điều 17; Điều 58; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Hoàng K2 từ 03 (ba) năm đến 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù giam;
Áp dụng điểm a, c khoản 2 Điều 174; Điều 17; Điều 58; điểm s khoản 1 Điều 51;
điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Lý Mỹ T3 từ 03 (ba) năm đến 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù giam;
Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 174; Điều 17; Điều 58; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 101; Điều 91 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Lương Thường Q từ 01 (một) năm đến 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù giam;
Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 174; Điều 17; Điều 58; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Trương Nguyễn Thị H1 từ 02 (hai) năm đến 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù giam.
Tiếp tục lưu giữ theo hồ sơ vụ án: các tài liệu sao kê chuyển khoản, nội dung trao đổi Zalo giữa các bên được trích xuất lưu theo hồ sơ.
Giao trả cho Lại Ngọc Đoan T số tiền 30.000.000 đồng (bị hại Nguyễn Minh H4 tự nguyện giao nộp cho Cơ quan điều tra số tiền 30.000.000 đồng mà bị cáo T6 khắc phục chuyển dư, đã nhập kho bạc nhà nước).
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Quá trình điều tra, truy tố của Cơ quan điều tra Công an Q1, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận X, Kiểm sát viên đã thực hiện các hành vi, quyết định tố tụng đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo Bộ luật tố tụng hình sự quy định. Quá trình điều tra bị cáo, bị hại, người giám hộ, Luật sư bào chữa cho bị cáo Q cũng không có bất cứ ý kiến hoặc khiếu nại gì về các hành vi, quyết định của Cơ quan tố tụng cũng như người tiến hành tố tụng. Vì vậy có cơ sở xác định các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.
[2] Lời khai thừa nhận hành vi phạm tội của các bị cáo tại phiên tòa như truy tố của Viện kiểm sát nhân dân Quận X, là phù hợp với các lời khai tại Cơ quan điều tra; phù hợp với nội dung Biên bản tiếp nhận nguồn tin về tội phạm do Công an P1, Quận C lập ngày 18/8/2022 (BL110); Biên bản tiếp nhận nguồn tin về tội phạm do Công an Phường V, Quận c lập ngày 26/8/2022 (BL111) phù hợp nội dung các lời khai của bị hại cùng các tài liệu, chứng cứ khác được thu thập trong quá trình điều tra. Vì vậy Hội đồng xét xử đã có đủ cơ sở kết luận như sau: Lại Ngọc Đoan T cùng các bị cáo K2, T3, T1, Q, H1 cùng thực hiện hành vi xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản và chiếm đoạt của anh Lê Duy L1 với số tiền 7.067.000 đồng, chiếm đoạt của anh Nguyễn Văn H5 với số tiền 68.778.000 đồng vào các ngày 09/8/2022 và 17/8/2022 với hình thức chuyển tiền qua tài khoản, trong đó bị cáo T6 với mức chiếm đoạt là 75.845.000 đồng, các bị cáo K2, T6, T3 là 68.778.000 đồng,bị cáo Q và H1 là 7.067.000 đồng. Do đó, Cáo trạng số 86/CT-VKS-HS ngày 21/9/2023, Viện kiểm sát nhân dân Quận X đã truy tố các bị cáo Lại Ngọc Đoan T, Nguyễn Hoàng K2,Nguyễn Văn T1, Lý Mỹ T3 về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a, c khoản 2 Điều 174 Bộ luật Hình sự; các bị cáo Lương Thường Q và Trương Nguyễn Thị H1 về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 2 Điều 174 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.
[3] Xét vai trò và tính chất đồng phạm của các bị cáo thấy rằng đây là vụ án đồng phạm có tổ chức, bị cáo Lại Ngọc Đoan T là người cầm đầu, hướng dẫn các bị cáo khác thực hiện việc chiếm đoạt tài sản của người khác để chia nhau nên phải chịu trách nhiệm chính. Các bị cáo Nguyễn Văn T1, Nguyễn Hoàng K2, Lý Mỹ T3, Lương Thường Q, Trương Nguyễn Thị H1 là người thực hành tích cực, trực tiếp thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản nên là đồng phạm với bị cáo T với vai trò là người thực hành, do đó Hội đồng xét xử áp dụng Điều 17 và Điều 58 Bộ luật Hình sự quy định về xử phạt trong trường hợp có đồng phạm để xem xét khi lượng hình đối với các bị cáo.
[4] Xét về tính chất, nhân thân, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo, Hội đồng xét xử thấy rằng các bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, có đủ nhận thức, biết rõ việc chiếm đoạt tài sản trái phép của người khác là vi phạm pháp luật và sẽ bị pháp luật trừng trị nhưng do động cơ tham lam ích kỷ và xem thường pháp luật, muốn có tiền tiêu xài cho cá nhân nhưng không chịu lao động nên dẫn đến việc các bị cáo phạm tội. Hành vi của các bị cáo trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ đồng thời gây mất trật tự trị an xã hội. Bị cáo Lại Ngọc Đoan T có nhân thân xấu (ngày 08/9/2023, Tòa án nhân dân Tỉnh Thừa Thiên Huế xử phạt 02 (hai) năm 03 (ba) tháng tù giam về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo bản án hình sự sơ thẩm số 74/2023/HS-ST) và bị cáo Nguyễn Văn T1 có nhân thân xấu (ngày 08/9/2023, Tòa án nhân dân Tỉnh Thừa Thiên Huế xử phạt 02 (hai) năm tù giam về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo bản án hình sự sơ thẩm số 74/2023/HS-ST). Hành vi của các bị cáo đã phạm vào tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 2 Điều 174 Bộ luật Hình sự. Vì vậy Hội đồng xét xử xét thấy cần có mức án nghiêm khắc nhằm giáo dục các bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.
[5] Tuy nhiên cũng xét, tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa các bị cáo đã thành khẩn khai báo, thể hiện thái độ ăn năn, hối lỗi nên được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự; Bị cáo T đã bồi thường, khắc phục hậu quả quy định tại điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự; Các bị cáo T, T1, K2, T3 phạm tội 02 lần trở lên nên phạm vào tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.
[6] Từ những cơ sở trên, nghĩ cần căn cứ Điều 50 Bộ luật Hình sự quy định về căn cứ quyết định hình phạt, Điều 38 Bộ luật Hình sự quy định về tù có thời hạn; áp dụng điềm a, c khoản 2 Điều 174 Bộ luật Hình sự quy định về khung hình phạt áp dụng; áp dụng điểm b,s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo T; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự quy định các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để có hình phạt tù tương xứng với tính chất mức độ phạm tội của các bị cáo.
[7] Về xử lý vật chứng: Các tài liệu sao kê chuyển khoản, nội dung trao đổi Zalo giữa các bên được trích xuất lưu theo hồ sơ vụ án nghĩ nên tiếp tục lưu giừ theo hồ sơ vụ án.
Số tiền 30.000.000 đồng ( Ông Nguyễn Minh H4 tự nguyện giao nộp số tiền trên theo giấy nộp tiền của Ngân hàng TMCP C2 - Chi nhánh C3, Tp.H cho Cơ quan điều tra do bị cáo T khắc phục chuyển dư, đã nhập kho bạc nhà nước Quận X ngày 12/8/2023, Bl 244) không liên quan đến vụ án nghĩ nên giao trả cho Lại Ngọc Đoan T.
[8] Trách nhiệm dân sự: các bị hại Nguyễn Minh H4 và Lê Duy L1 đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường do đó Hội đồng xét xử không xem xét.
[9] Đối với đối tượng Lê Thị Tuyết N1 khai nhận có mở tài khoản ngân hàng giúp T nhưng không biết T dùng tài khoản để lừa đảo chiếm đoạt tài sản Cơ quan điều tra không đủ cơ sở để xử lý hình sự đối với N1 với vai trò đồng phạm trong vụ án là có căn cứ.
[10] Xét đề nghị của đại diện Viện kiềm sát nhân dân Quận X tại phiên tòa là phù hợp tính chất, mức độ phạm tội, phù hợp nhận định của Hội đồng xét xử, nghĩ nên chấp nhận.
[11] Bị cáo phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Luật phí và lệ phí năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố các bị cáo Lại Ngọc Đoan T, Nguyễn Văn T1, Nguyễn Hoàng K2, Lý Mỹ T3, Lương Thường Q, Trương Nguyễn Thị H1 đã phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
Căn cứ các Điều 331, 333, 336 và Điều 337 Bộ luật Tố tụng Hình sự.
Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự và Điều 47 Bộ luật Hình sự
Căn cứ các Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Luật phí và lệ phí năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Căn cứ Điều 38; Điều 50; điểm a,c khoản 2 Điều 174; Điều 17; Điều 58; điểm b, s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự đối với Lại Ngọc Đoan T.
Xử phạt: Lại Ngọc Đoan T (hai) năm 06 (sáu) tháng tù giam. Thời hạn tù tính từ ngày bắt giam thi hành án. Căn cứ Điều 38; Điều 50; điểm a,c khoản 2 Điều 174; Điều 17; Điều 58; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; khoản 1 Điều 56 Bộ luật Hình sự đối với Nguyễn Văn T1. Xử phạt: Nguyễn Văn T1 02 (hai) năm 03 (ba) tháng tù giam. Tổng hợp hình phạt đã tuyên với hình phạt 02 (hai) năm tù giam tại bản án hình sự sơ thẩm số 74/2023/HS-ST ngày 08/9/2023 của Tòa án nhân dân Tỉnh Thừa Thiên Huế. Buộc Nguyễn Văn T1 phải chấp hành một hình phạt chung cho cả hai bản án là 04 (bốn) năm 03 (ba) tháng tù giam. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam 07/9/2022.Căn cứ Điều 38; Điều 50; điểm a,c khoản 2 Điều 174; Điều 17; Điều 58; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự đối với Nguyễn Hoàng K2. Xử phạt: Nguyễn Hoàng K2 02 (hai) năm tù giam. Thời hạn tù tính từ ngày bắt giam thi hành án. Căn cứ Điều 38; Điều 50; điểm a,c khoản 2 Điều 174; Điều 17; Điều 58; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự đối với Lý Mỹ T3. Xử phạt: Lý Mỹ Thuyền 02 (hai) năm tù giam. Thời hạn tù tính từ ngày bắt giam thi hành án.
Căn cứ Điều 38; Điều 50; điểm a khoản 2 Điều 174; Điều 17; Điều 58; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 101; Điều 91 Bộ luật Hình sự đối với Lương Thường Q. Xử phạt: Lương Thường Q 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù giam. Thời hạn tù tính từ ngày bắt giam thi hành án.
Căn cứ Điều 38; Điều 50; điểm a khoản 2 Điều 174; Điều 17; Điều 58; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự đối với Trương Nguyễn Thị H1. Xử phạt: Trương Nguyễn Thị H 02 (hai) năm tù giam. Thời hạn tù tính từ ngày bắt giam thi hành án.
Tiếp tục lưu giữ theo hồ sơ vụ án các tài liệu sao kê chuyển khoản, nội dung trao đổi Zalo giữa các bên được trích xuất lưu theo hồ sơ.
Giao trả số tiền 30.000.000 đồng (ba mươi triệu đồng) cho Lại Ngọc Đoan T.
Buộc các bị cáo chịu 200.000 đồng án phí Hình sự sơ thẩm.
Các bị cáo được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân Tp. H trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại, người giám hộ, người bào chữa cho bị cáo Q được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân Tp. H trong trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt bản án, hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.
Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 108/2023/HS-ST
Số hiệu: | 108/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận 3 - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 21/12/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về