TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH NGHỆ AN
BẢN ÁN 09/2024/HS-ST NGÀY 15/01/2024 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
Ngày 15/01/2024 tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 191/2023/TLST-HS ngày 27 tháng 11 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 03/2024/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 01 năm 2024 đối với bị cáo:
Phan Trọng T, tên gọi khác: Không, sinh ngày 18 tháng 3 năm 1986, tại huyện Đ, tỉnh Hà Tĩnh; nơi thường trú: Xóm T, xã A, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phan Văn V và bà Đào Thị C; có vợ Trần Lệ H (đã ly hôn) và có 01 con; tiền án, tiền sự, nhân thân: không; bị bắt, tạm giam từ ngày 25/7/2023 đến nay; có mặt.
- Người bào chữa cho bị cáo Phan Trọng T: Ông Nguyễn Trung T1, Luật sư của Văn phòng L1, thuộc Đoàn luật sư tỉnh N; có mặt.
- Người bị hại:
+ Anh Ngô Xuân C1, sinh năm 1989; địa chỉ: Khối V, phường Đ, thành phố V, tỉnh Nghệ An; vắng mặt.
+ Chị Hồ Thị Bé L, sinh năm 1992; địa chỉ: Đường N, khối V, phường Đ, thành phố V, tỉnh Nghệ An; vắng mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
+ Anh Phan Đức K, sinh năm 1971; địa chỉ: Khối phố D, phường T, thành phố H, tỉnh Hà Tĩnh; vắng mặt.
+ Anh Đinh Xuân D, sinh năm 1993; địa chỉ: Thôn H, xã L, huyện Đ, tỉnh Hà Tĩnh; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Trong thời gian tháng 03/2023, do cần tiền tiêu xài cá nhân và chơi game trên mạng xã hội nên Phan Trọng T, sinh năm 1986, trú tại xóm T, xã A, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh, đã thực hiện 02 vụ lừa đảo chiếm đoạt tài sản bằng hình thức thuê xe ô tô tự lái rồi làm giấy tờ đăng ký xe ô tô giả để cầm cắm lấy tiền. Cụ thể như sau:
* Vụ thứ nhất:
Ngày 24/03/2023, Phan Trọng T đến Công ty T4 cho thuê xe ô tô tự lái Linh Đan ở tại số A đường N, phường C, thành phố V, tỉnh Nghệ An, do chị Hồ Thị Bé L, sinh năm 1992 làm chủ, thuê xe ô tô nhãn hiệu MITSUBISI, số loại XFANDER, mang biển số 37A - 772.xx với giá 700.000 đồng (Bảy trăm nghìn đồng)/ 01 ngày. Chị L đồng ý giao xe ô tô cho T và giấy đăng ký của xe ô tô (phô tô công chứng). Sau khi thuê xe, T đã liên hệ một tài khoản Facebook (T không nhớ tên tài khoản Facebook) nhắn tin đặt làm giả một đăng ký xe ô tô mang tên Phan Trọng T với giá là 1.000.000 đồng (Một triệu đồng) và chụp lại, chuyển hình ảnh đăng ký xe ô tô mang biển số 37A - 772.xx (phô tô công chứng) cho số tài khoản Facebook. Đến khoảng 08 giờ 30 phút ngày 25/03/2023 có một người phụ nữ (không quen biết) giao cho Phan Trọng T một giấy đăng ký xe ô tô mang biển số 37A - 772.xx mang tên Phan Trọng T, T đã trả cho người phụ nữ đó số tiền là 1.000.000 đồng (Một triệu đồng). Sau khi có giấy đăng ký xe ô tô giả, đến khoảng 17 giờ ngày 26/03/2023, T điều khiển xe ô tô mang biển số 37A - 772.xx đi đến quán bi-a của anh Đinh Xuân D, sinh năm 1993, trú tại thôn H, xã L, huyện Đ, tỉnh Hà Tĩnh cắm xe để vay tiền. Anh D hỏi T “Có đăng ký chính chủ không”, T nói “có, đây” đồng thời đưa giấy đăng ký xe ô tô mang biển số 37A - 772.xx giả ra cho anh D xem. Sau khi xem đăng ký xong, anh D hỏi T “Xe cắm bao nhiêu”, T trả lời là “Cắm ba trăm”, anh D đồng ý và anh D viết một tờ giấy vay tiền, rồi yêu cầu T ký vào, anh D chuyển tiền vào tài khoản 06410000165xx Ngân hàng V1 của Phan Trọng T, với số tiền là 300.000.000 đồng (Ba trăm triệu đồng). Sau khi lấy được tiền, T đã tiêu xài cá nhân và đầu tư app sàn giao dịch chứng khoán trên mạng xã hội hết.
* Vụ thứ hai:
Ngày 31/03/2023, Phan Trọng T đi xe máy đến Công ty tư nhân cho thuê xe tự lái Công Thành tại số B đường T, phường L, thành phố V, tỉnh Nghệ An do anh Ngô Xuân C1, sinh năm 1989, trú tại khối V, phường Đ, thành phố V, tỉnh Nghệ An làm chủ để thuê xe ô tô nhãn hiệu TOYOTA, số loại VELOZ, mang biển số 37K - 057xx với giá 900.000 đồng/ngày, anh Ngô Xuân C1 giao cho T 01 giấy kiểm định của xe ô tô và 01 giấy đăng ký xe ô tô phô tô công chứng. Sau khi thuê được xe, T liên hệ một tài khoản Facebook đặt làm giả một đăng ký xe ô tô mang biển số 37K - 057xx mang tên Phan Trọng T. Chiều ngày 31/3/2023, T lái xe ô tô mang biển số 37K - 057xx đưa về trả cho Công ty cho thuê xe tự lái Công Thành. Đến ngày 01/04/2023, có một người phụ nữ (không quen biết) giao hàng đưa Phan Trọng T một giấy đăng ký xe ô tô mang biển số 37K - 057xx giả mang tên Phan Trọng T và T đã trả cho người phụ nữ đó số tiền là 1.000.000 đồng (Một triệu đồng). Đến sáng ngày 06/04/2023, T đi đến Công ty cho thuê xe tự lái Công Thành và yêu cầu thuê chiếc xe ô tô mang biển số 37K - 057xx, anh C1 đồng ý và làm hợp đồng thuê xe với thời gian 10 ngày. Sau khi thuê được xe, T điều khiển xe ô tô đi đến cửa hàng C2 tại số I, đường N, phường T, thành phố H, tỉnh Hà Tĩnh gặp anh Phan Đức K, sinh năm 1971, để cắm xe ô tô biển số 37K-057xx với giá 400.000.000 đồng, nhưng anh K chỉ cầm cho T 370.000.000 đồng. T đồng ý và đưa giấy đăng ký xe ô tô mang biển kiểm soát 37K - 057xx giả mang tên Phan Trọng T và thẻ căn cước công dân của mình cho anh K. Sau đó anh K làm hợp đồng cầm đồ chiếc xe ô tô mang biển số 37K - 057xx với số tiền là 370.000.000 đồng (Ba trăm bảy mươi triệu đồng). Sau khi lấy được tiền, T đã tiêu xài cá nhân hết.
Ngày 20/7/2023, anh Ngô Xuân C1 và chị Hồ Thị Bé L đã làm đơn tố cáo hành vi của Phan Trọng T đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh N. Ngày 25/7/2023, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh N ra Lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp đối với Phan Trọng T. Tại Cơ quan điều tra, Phan Trọng T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.
Ngày 25/7/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh N đã yêu cầu định giá đối với 02 xe ô tô mà Phan Trọng T đã chiếm đoạt. Tại Bản kết luận định giá tài sản số 31/KL - HĐĐGTS ngày 01/08/2023 của Hội đồng định giá tài sản thuộc UBND tỉnh N kết luận:
- 01 (một) xe ô tô nhăn hiệu: TOYOTA; số loại: VELOZ ; Màu sơn: Bạc, sản xuất năm 2022, biển kiểm soát 37K - 057xx; số máy: 2NRX845290; số khung: MHFAB1BY3N3005680. Xe đã qua sử dụng, tại thời điểm tháng 4/2023 có mức giá là: 620.000.000đ (Sáu trăm hai mươi triệu đồng).
- 01 (một) xe ô tô nhãn hiệu: MITSUBISI; số loại: XFANDER GLP; Màu sơn: Trắng, sản xuất năm 2019, biển kiểm soát 37A - 772.xx; số máy: 4A91GJ3587; số khung: MK2XRNC1WKN027783. Xe đã qua sử dụng, tại thời điểm tháng 3/2023 có mức giá là: 480.000.000đ (Bốn trăm tám mươi triệu đồng).
Ngày 27/07/2023 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh N đã trưng cầu Giám định viên - Phòng K1 Công an tỉnh N giám định kỹ thuật tài liệu đối với:
- 01 (một) Giấy “CHỨNG NHẬN ĐĂNG KÝ XE Ô TÔ” số 130054, tên chủ xe: Phan Trọng T. Biển số đăng ký 37A - 772.xx đề ngày 04/12/2020. Ký hiệu A1.
- 01 (một) Giấy “CHỨNG NHẬN ĐĂNG KÝ XE Ô TÔ” số 37 039327, tên chủ xe: Phan Trọng T. Biển số đăng ký 37K - 057xx đề ngày 26/07/2022. Ký hiệu A2.
Tại bản Kết luận giám định số 303/KL - KTHS (Đ3-TL) ngày 02/08/2023 của Phòng K1 Công an tỉnh N đối với kỹ thuật tài liệu kết luận: 02 (Hai) giấy “CHỨNG NHẬN ĐĂNG KÝ XE Ô Tô” ký hiệu A1, A2 là giả.
* Vật chứng:
Trong quá trình điều tra, Cơ quan cảnh sát điều tra đã thu giữ:
- 01 (một) xe ô tô nhăn hiệu: Toyota; số loại: Veloz, M sơn: Bạc, BKS 37K-057xx; 01 giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật đối với xe Toyota.
- 01 (một) xe ô tô nhãn hiệu: Mitsubisi; Số loại: Xfander GLP; Màu sơn: Trắng, BKS 37A-772.xx, 01 giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật đối với xe Mitsubisi.
Hiện, 02 chiếc xe ô tô nói trên đã được trả lại cho chủ sở hữu là chị Hồ Thị Bé L và anh Ngô Xuân C1.
- 01 (Một) Giấy “CHỨNG NHẬN ĐĂNG KÝ XE Ô TÔ” số 130054, tên chủ xe: Phan Trọng T. Biển số đăng ký 37A -772.xx đề ngày 4/12/2020. (kèm theo hồ sơ vụ án).
- 01 (Một) Giấy “CHỨNG NHẬN ĐĂNG KÝ XE Ô TÔ” số 37 039327, tên chủ xe: Phan Trọng T. Biển số đăng ký 37K - 057xx đề ngày 26/07/2022. (kèm theo hồ sơ vụ án).
- 01 (Một) điện thoại nhãn hiệu Iphone 7 màu hồng đã qua sử dụng thu giữ của Phan Trọng T. Hiện, đang được bảo quản tại Kho vật chứng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh N.
Về dân sự:
- Chị Hồ Thị Bé L và anh Ngô Xuân C1 là người bị hại đã nhận lại được tài sản nên không có yêu cầu gì thêm.
- Anh Phan Đức K yêu cầu Phan Trọng T phải bồi thường số tiền 370.000.000đ (Ba trăm bảy mươi triệu đồng); anh Đinh Xuân D yêu cầu đền bù số tiền 300.000.000đ (Ba trăm triệu đồng).
Trong quá quá trình điều tra, Phan Trọng T đã tác động gia đình khắc phục hậu quả cho người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là anh Phan Đức K số tiền 30.000.000 đồng (Ba mươi triệu đồng) và anh Đinh Xuân D số tiền 30.000.000 đồng (Ba mươi triệu đồng).
Bản cáo trạng số 206/CT-VKSNA - P2 ngày 23 tháng 11 năm 2023, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An quyết định truy tố bị cáo Phan Trọng T về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật hình sự và tội “Sử dụng con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức” quy định tại điểm b khoản 3 Điều 341 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An giữ nguyên nội dung cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174 điểm b khoản 3 Điều 341; điểm b, s, v khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Phan Trọng T từ 8-9 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và 3-4 năm tù về tội “Sử dụng con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức”. Tổng hợp hình phạt buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt cho cả hai tội là 10 - 12 năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 25/7/2023.
Về hình phạt bổ sung: Hoàn cảnh kinh tế gia đình bị cáo khó khăn nên miễn hình phạt bổ sung là hình phạt tiền cho bị cáo.
Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo đã bồi thường cho anh Phan Đức K số tiền 100.000.000 đồng; bồi thường cho anh Đinh Xuân D số tiền 100.000.000 đồng, các bị hại vắng mặt và có văn bản không yêu cầu bị cáo bồi thường tiếp mà do các bên tự giải quyết.
Về án phí, đề nghị Hội đồng xét xử xử lý theo quy định của pháp luật.
Phần tranh luận: Luật sư bào chữa cho bị cáo Phan Trọng T không tranh luận về tội danh, chứng cứ, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hơn mức đại diện Viện kiểm sát đề nghị vì bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội, bị cáo đã khắc phục một phần hậu quả, bị cáo được Chủ tịch nước tặng huân chương chiến sĩ vẻ vang, được Cục cảnh sát phòng cháy chữa cháy tặng Giấy khen trong phòng chống cứu nạn, cứu hộ.
Bị cáo Phan Trọng T đồng ý với quan điểm của Luật sư bào chữa và không tranh luận gì thêm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh N, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa, bị cáo Phan Trọng T thừa nhận hành vi phạm tội như Cáo trạng của Viện kiểm sát đã quy kết. Lời nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai nhận trong quá trình điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Như vậy có đủ căn cứ khẳng định: Vào thời gian từ ngày 24/3/2023 và ngày 31/3/2023, do muốn có tiền đề tiêu xài Phan Trọng T đã 02 lần thuê xe ô tô tự lái rồi lên mạng xã hội đặt làm 02 giấy đăng ký xe ô tô giả mang tên mình để cầm cắm xe lấy tiền, cụ thể.
Lần thứ nhất: Vào ngày 24/3/2023, Phan Trọng T đã thuê xe ô tô Xfander Mitsubisi mang biển số 37A-772.xx của chị Hồ Thị Bé L rồi lên mạng xã hội đặt làm giả 01 đăng ký xe ô tô với giá 1.000.000 đồng (một triệu đồng) của người không quen biết. Đến ngày 26/3/2023, Phan Trọng T đã cầm cắm xe ô tô trên cho anh Đinh Xuân D, sinh năm 1993, trú tại thôn H, xã L, huyện Đ, tỉnh Hà Tĩnh với giá 300.000.000 đồng (Ba trăm triệu đồng).
Lần thứ hai: Vào ngày 31/03/2023, Phan Trọng T thuê xe ô tô nhãn hiệu Toyota, số loại Veloz, màu son bạc, mang biển số 37K - 057xx của anh Ngô Xuân C1 rồi lên mạng xã hội đặt làm giả 01 đăng ký xe ô tô trị giá 1.000.000 đồng (Một triệu đồng). Sau khi đặt làm giấy tờ giả xong, T đưa xe ô tô về trả cho anh C1. Đến ngày 06/4/2023, sau khi làm được giấy đăng ký giả ô tô 37K - 057xx, T đến gặp anh C1 thuê lại xe ô tô 37K - 057xx rồi đưa đi cầm cắm cho anh Phan Đức K, sinh ngày 16/10/1971, trú tại: phường T, thành phố H, tỉnh Hà Tĩnh để lấy 370.000.000 đồng (Ba trăm bảy mươi triệu đồng).
Tổng trị giá 02 xe ô tô mà T đã chiếm đoạt có giá trị 1.100.000.000 đồng (Một tỷ một trăm triệu đồng).
Như vậy, đã đủ căn cứ kết luận bị cáo Phan Trọng T phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” với tình tiết định khung “Chiếm đoạt tài sản có giá trị 500.000.000 đồng trở lên” quy định tại điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật hình sự và tội “Sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” với tình tiết định khung quy định tại điểm b khoản 3 Điều 341 Bộ luật hình sự như cáo trạng truy tố là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3] Xét tính chất vụ án thấy rằng: Hành vi phạm tội của bị cáo Phan Trọng T nguy hiểm cho xã hội và phạm tội thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng, hành vi của bị cáo không những xâm phạm đến quyền sở hữu của người khác được pháp luật bảo vệ mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến kinh tế, hạnh phúc của từng gia đình bị hại, gây tâm lý bất bình trong Nhân dân và các bị hại. Bị cáo ý thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng với bản chất tham lam, lười lao động và xem thường pháp luật bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội nhằm chiếm đoạt tài sản người khác để tiêu xài cá nhân Đối với tội “Sử dụng con dấu, tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”: Hành vi của bị cáo T đã xâm phạm trật tự quản lý hành chính Nhà nước, xâm phạm sự hoạt động đúng đắn của cơ quan Nhà nước, tổ chức trong lĩnh vực quản lý hành chính Nhà nước về con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ khác. Bị cáo sử dụng tài liệu giả để phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” quy định tại điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật hình sự.
Do đó, cần phải áp dụng hình phạt nghiêm minh tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo nhằm trừng trị và cải tạo, giáo dục bị cáo thành người có ích đồng thời răn đe phòng ngừa chung.
[4] Xét các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ của bị cáo:
Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo Phan Trọng T phạm tội 02 lần trở lên, đây là các tình tiết tăng nặng được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.
Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên tòa bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội nên được coi là khai báo thành khẩn về hành vi phạm tội của mình. Bị cáo đã tác động gia đình khắc phục một phần hậu quả số tiền 200.000.000 đồng cho hai người bị hại, người bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Trong quá trình công tác, bị cáo được Chủ tịch nước tặng huân chương chiến sĩ vẻ vang, được Cục trưởng Cục cảnh sát Phòng cháy chữa cháy tặng Giấy khen trong phòng chống cứu nạn, cứu hộ. Đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm b, s, v khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
[5] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo hiện tại không có tài sản gì và đang phải có trách nhiệm trả nợ cho người liên quan nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[6] Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo đã tác động gia đình bồi thường cho anh Phan Đức K số tiền 100.000.000 đồng; bồi thường cho anh Đinh Xuân D số tiền 100.000.000 đồng. Tại phiên tòa, các bị hại vắng mặt và có văn bản không yêu cầu bị cáo bồi thường tiếp mà do các bên tự giải quyết. Vì vậy, Hội đồng xét xử không xem xét.
[7] Vật chứng vụ án: 01 (một) chiếc điện thoại di động màu hồng, nhãn hiệu iphone 7 thu giữ của Phạn Trọng T2 là công cụ phương tiện phạm tội cần tịch thu sung quỹ Nhà nước.
[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Phan Trọng T phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và tội “Sử dụng con dấu, tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”.
Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s, v khoản 1 khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 47 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Phan Trọng T 8 (T3) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Áp dụng điểm b khoản 3 Điều 341; điểm s, v khoản 1 khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 điều 52; Xử phạt bị cáo Phan Trọng T 3 (Ba) năm tù về tội tội “Sử dụng con dấu, tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”.
Áp dụng Điều 55 Bộ luật hình sự tổng hợp hình phạt buộc bị cáo Phan Trọng T phải chấp hành hình phạt chung của hai tội là 11 (Mười một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam ngày 25/7/2023.
Miễn hình phạt bổ sung là hình phạt tiền cho bị cáo.
2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự, Điều 47 Bộ luật Hình sự:
Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 (một) điện thoại di động màu hồng, nhãn hiệu iphone 7 đã qua sử dụng, số IMEI 353806082820690, bên trong có gắn sim số thuê bao 0912366xxx.
Đặc điểm vật chứng như Biên bản giao nhận vật chứng ngày 27 tháng 11 năm 2023 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh N và Cục thi hành án dân sự tỉnh Nghệ An.
3. Về án phí: Áp dụng Điều 135 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Phan Trọng T phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
4. Bị cáo có mặt có quyền kháng cáo Bản án lên Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo Bản án lên Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án./.
Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 09/2024/HS-ST
Số hiệu: | 09/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Nghệ An |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 15/01/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về