Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 02/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THANH HÓA, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 02/2023/HS-ST NGÀY 25/10/2023 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 25 tháng 10 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố thanh Hóa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 09/2023/TLST-HS ngày 04 tháng 10 năm 2023 theo Quyết dịnh đưa vụ án ra xét xử số 03/2023/QĐXXST - HS ngày 11/10/2023 đối với bị cáo:

Châu Thị V - sinh năm 1978 tại Thanh Hóa. Nơi cư trú: Lô 950 MBQH E, phường Đ, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hóa: 07/12; dân tộc: kinh; giới tính: nữ; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Châu Khắc T (đã chết) và bà; Nguyễn Thị H; chồng: Nguyễn Văn T1 (đã chết) và 02 con; Tiền án, tiền sự: không; nhân thân: năm 2019 bị TAND thành phố Thanh Hóa xử phạt 09 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 18 tháng về tội “Đánh bạc”; bị bắt tạm giam: 30/8/2023, “có mặt”.

Bị hại: Anh Nguyễn Hồng Q - SN 1964 “vắng mặt”

Địa chỉ: Số nhà E Đại lộ L, phường T, thành phố T, tỉnh Thanh H

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do có mục đích chiếm đoạt từ trước, khoảng 10h ngày 05/6/2022 Châu Thị V hẹn anh Nguyễn Hồng Q đến quán cà phê Điểm H1 tại lô B, MBQH E, phường Đ, thành phố T uống nước. Trong lúc ngồi nói chuyện, V hỏi anh Q mượn chiếc xe mô tô hiệu Honda Airblade màu đỏ đen, biển kiểm soát 36P3-X để về nhà lấy quần áo. Anh Q tin tưởng nên đồng ý chi V mượn xe. Sau khi mượn được xe, V điều khiển đến nhà anh Nguyễn Thế B, sinh năm 1974, trú tại: 0 T, phường Đ, thành phố T cầm cố lấy 3.000.000đ (ba triệu đồng) và hẹn mấy ngày sau đến lấy. Số tiền cầm cố xe V sử dụng chi tiêu cá nhân hết.

Anh Q ngồi đợi không thấy V quay lại và liên lạc với V không được. Tối cùng ngày, khi liên lạc được với V, anh Q hỏi xe thì V nói đã mang đi cầm cố. Anh Q không đồng ý và yêu cầu V phải trả xe nhưng do không có tiền để lấy xe trả cho anh Q nên V đã bỏ trốn, cắt liên hệ với anh Q và anh B. Sau một thời gian không thấy V quay lại lấy xe, liên lạc với V không được nên anh B cho anh Đỗ Viết T2, sinh năm 1976, trú tại: 4 N, phường Q, thành phố T mượn chiếc xe trên để sử dụng. Do nhiều lần nhắn tin đòi xe không được, anh Q tố cáo V đến cơ quan Công an.

Ngày 06/3/2023, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự đã định giá chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Airblade màu đỏ đen, biển kiểm soát 36P3-X trị giá: 11.000.000 đồng. Cơ quan điều tra đã trả lại chiếc xe cho anh Q, anh Q không yêu cầu gì thêm về phần dân sự.

Đối với anh Nguyễn Thế B là người cho V cầm cố chiếc xe nhưng không biết là xe do phạm tội mà có nên không có cơ sở để xử lý. Gia đình V đã trả lại cho anh B 3.000.000đ, anh B không có yêu cầu bồi thường gì thêm.

Tại bản cáo trạng số 337/CT-VKS ngày 03 tháng 10 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Thanh Hoá truy tố Châu Thị Vui về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Thanh Hoá giữ nguyên quyết định truy tố, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: khoản 1 Điều 174; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự. Đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo từ 12 đến 15 tháng tù. Ngoài ra đại diện viện kiểm sát còn đề nghị về án phí.

Bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội và không tranh luận gì với đại diện Viện kiểm sát mà chỉ có ý kiến là hình phạt Viện kiểm sát đề nghị là cao. Lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo, bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiền hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa hôm nay thống nhất với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại cùng các tài liệu khác phản ánh trong hồ sơ vụ án đã có đủ cơ sở chứng minh: Ngày 05/6/2023, tại quán C lô 249, MBQH E, phường Đ, thành phố T. Châu Thị V đã dùng lời nói gian dối để lừa đảo chiếm đoạt của anh Nguyễn Hồng Q 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Airblade, biển kiểm soát 36P3-X, trị giá 11.000.000đ để cầm cố lấy tiền ăn tiêu cá nhân.

Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hành vi phạm tội của Châu Thị V có đủ các dấu hiệu cấu thành tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Tội danh và khung hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 174 Bộ luật Hình sự như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có cơ sở, đúng pháp luật.

[3] Tính chất vụ án: Sau khi nhận được tài sản của bị hại, bị cáo đã không trả lại tài sản cho chủ sở hữu mà chiếm đoạt. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản của người khác, gây mất trật tự trị an chung cần xử lý nghiêm minh.

[4] Nhân thân và trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Bị cáo có nhân thân xấu, đã được các cơ quan pháp luật cải tạo, giáo dục nhưng không chịu cải sửa mà còn phạm tội chứng tỏ bị cáo không chịu rèn luyện bản thân, coi thường pháp luật.

Với nhân thân, tính chất vụ án và hành vi phạm tội của bị cáo thì việc cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian là cần thiết để cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

Khi áp dụng hình phạt cần căn cứ điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo vì tại các cơ quan pháp luật thành khẩn khai báo, gia đình bị cáo bồi thường 3.000.000 đồng cho anh B.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Anh Nguyễn Hồng Q đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt, anh Nguyễn Thế B đã nhận lại tiền 3.000.000 đồng và không có yêu cầu bồi thường gì thêm nên công nhận phần dân sự giữa bị cáo, bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được giải quyết xong.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: khoản 1 Điều 174; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Bộ luật hình sự. Khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự. Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 của Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên bố: Bị cáo Châu Thị V phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Xử phạt: Châu Thị V 12 (mười hai) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù kể từ ngày 30/8/2023.

- Về trách nhiệm dân sự:

Công nhận phần dân sự đã được giải quyết xong.

Án phí: Bị cáo phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án đối với khoản tiền án phí theo quy định tại các Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bán án hoặc ngày niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

27
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 02/2023/HS-ST

Số hiệu:02/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/10/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về