TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI DƯƠNG - TỈNH HẢI DƯƠNG
BẢN ÁN 113/2023/HS-ST NGÀY 20/07/2023 VỀ TỘI LÀM GIẢ TÀI LIỆU CỦA CƠ QUAN, TỔ CHỨC
Ngày 20 tháng 7 năm 2023, tại phòng xét xử, Tòa án nhân dân thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự đã thụ lý số 56/2023/TLST-HS ngày 03/4/2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 59/2023/QĐXXST-HS ngày 25/4/2023; đối với bị cáo:
Đỗ Văn H, sinh năm 1993 tại tỉnh Hải Dương; Nơi đăng ký hộ khẩu và nơi cư trú: Thôn TX, xã LH, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đỗ Xuân Th, sinh năm 1971 và bà Hoàng Thị L, sinh năm 1971; có vợ là chị Phạm Thị D, sinh năm 1994 và 02 con; Tiền án, tiền sự: không; tại ngoại, đang chấp hành biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú. (Có mặt).
* Bị hại: Bà Tăng Thị Th, sinh năm 1953. Nơi cư trú trước khi chết: Thôn LH, xã HD, huyện GL, tỉnh Hải Dương.
- Người đại diện theo pháp luật của bị hại: Anh Hoàng Văn Thg, sinh năm 1976; anh Hoàng Văn L1, sinh năm 1978 và anh Hoàng Văn L2, sinh năm 1988. Địa chỉ: Thôn LH, xã HD, huyện GL, tỉnh Hải Dương. Người đại diện theo ủy quyền của anh Thg, anh L2 là anh Hoàng Văn L1. (Ông Hoàng Văn L3 đã chết ngày 24/8/2022) (anh L1 vắng mặt, có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt).
* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Anh Đào Văn D, sinh năm 1974; Địa chỉ: Khu KL, phường TH, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương (vắng mặt, có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt).
* Người làm chứng: Anh Vũ Văn Tr (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Đỗ Văn H được Sở Giao thông vận tải Hải Dương cấp Giấy phép lái xe hợp lệ hạng C số 300180002439 ngày 31/5/2018, có giá trị đến ngày 31/5/2023 (được phép điều khiển xe ô tô tải, máy kéo kéo rơ mooc, có trọng tải từ 3500kg trở lên và xe hạng B1, B2).
H không tham gia học các lớp đào tạo nghề vận hành máy công trình. Do muốn có chứng chỉ về nghề vận hành máy công trình để sử dụng cho bản thân nên khoảng tháng 4/2017 H truy cập vào Facebook của H và thấy tại tài khoản Facebook có tên “Hương Tuyển Sinh” đăng nội dung làm bằng, chứng chỉ nghề kèm số điện thoại liên hệ 0976.395.X, H nhắn tin qua ứng dụng Messenger cho tài khoản trên và được tư vấn có thể làm được chứng chỉ đào tạo nghề máy công trình giả cho H. H gọi điện đến số điện thoại trên thì gặp một người phụ nữ giới thiệu tên H5 (không xác định rõ họ, địa chỉ cụ thể) hướng dẫn H cung cấp thông tin cá nhân, ảnh chân dung 3x4 để làm chứng chỉ giả với số tiền 1.000.000đồng, hẹn thời gian nhận chứng chỉ trong khoảng 2-3 ngày đồng thời cung cấp địa chỉ để H gửi ảnh và thông tin cá nhân. Sau đó H chụp ảnh chân dung của mình và ghi đầy đủ thông tin cá nhân của H vào một tờ giấy trắng rồi gửi chuyển phát nhanh đến địa chỉ mà Hương cung cấp (H chỉ nhớ địa chỉ ở huyện Lương Tài, tỉnh Bắc Ninh và không nhớ đơn vị nhận chuyển phát). Khoảng 03 ngày sau, H nhận được thư chuyển phát nhanh gửi đến, bên trong có 01 chứng chỉ sơ cấp vận hành máy công trình số hiệu 7891163; số vào sổ cấp chứng chỉ 127/31583 cấp cho Đỗ Văn H sinh ngày 24/01/1993 do Trung tâm giáo dục nghề nghiệp CTA cấp ngày 15/11/2017; H nhận và thanh toán tiền cho đơn vị chuyển phát (không nhớ tên đơn vị và không giữ lại phong bì chuyển phát).
Đến khoảng tháng 01/2022, H sử dụng chứng chỉ trên đi xin việc làm và được anh Đào Văn D, sinh năm 1974, trú tại khu KL, phường TH, thành phố Hải Dương thuê làm việc, giao cho điều khiển máy xúc đào bánh lốp nhãn hiệu Daewoo Solar 210W-V, số khung SL210W-V-1329, số máy DB58TI403853EG. Khoảng 06 giờ 00 phút ngày 25/02/2022 H điều khiển máy xúc trên đi từ phố Lương Như Hộc, phường TH, thành phố Hải Dương đến phường TB, thành phố Hải Dương để nhận việc san lấp. Đến khoảng 06 giờ 50 phút cùng ngày, H điều khiển máy xúc đi trên đường ĐL, xã GX, thành phố Hải Dương theo hướng xã GX- phường TK; khi đến khu vực trước cổng Công ty TNHH MTV xuất nhập khẩu gỗ Hải Dương thì H nhìn thấy chiếc xe đạp do bà Tăng Thị Th, sinh năm 1953, trú tại thôn LH, xã HD, huyện GL, tỉnh Hải Dương đang điều khiển đi phía trước cùng chiều cách máy xúc của H khoảng 10m và cách mép đường bên phải khoảng 01m. H bấm còi để báo hiệu vượt xe đạp của bà Th nH do vượt xe không đảm bảo an toàn nên khi H đánh lái sang bên trái thì không quan sát được bà Th đi xe như thế nào. H nghe có tiếng va chạm nên dừng, xuống xe thì thấy phần đầu phía trước bên phải máy xúc va chạm vào phía sau xe đạp của bà Th làm xe đạp bị đổ, bà Th ngã ra đường và bị bánh trước bên phải máy xúc chèn qua người, tử vong tại chỗ.
Tại biên bản kiểm tra nồng độ cồn trong hơi thở lúc 9 giờ 15 phút ngày 25/02/2022 của Công an thành phố Hải Dương xác định: Kết quả máy đo hiển thị nồng độ cồn trong hơi thở của Đỗ Văn H là 0,000mg/l. Biên bản xét nghiệm chất ma túy trong nước tiểu lúc 9 giờ 25 phút ngày 25/02/2022 đối với Đỗ Văn H xác định: H âm tính với chất ma túy.
Ngày 25/02/2022 cơ quan Cảnh sát điều tra- Công an thành phố Hải Dương đã thu giữ dữ liệu video tại hệ thống camera của Công ty Cổ phần Cửu Long ở đường ĐL, xã GX, thành phố Hải Dương ghi lại hình ảnh diễn biến vụ tai nạn giao thông và tiến hành giám định. Tại Kết luận giám định số 1414/KL-KTHS ngày 07/4/2022 của Viện khoa học hình sự- Bộ Công an kết luận: “Không tìm thấy dấu vết cắt ghép, chỉnh sửa nội dung trong tệp video gửi giám định”.
Kết quả khám phương tiện xe đạp do bà Tăng Thị Th điều khiển thể hiện: Toàn bộ thân xe cong bẹp biến dạng chiều hướng từ trái qua phải. Đầu bên phải trục bánh sau có vết mài mòn kim loại dính bột đá đường màu trắng.
Kết quả khám phương tiện xe máy xúc đào bánh lốp nhãn hiệu Daewoo Solar 210W-V, số khung SL210W-V-1329, số máy DB58TI403853EG thể hiện: Tại mặt trước bên phải thanh càng chân đỡ phía trước có vết va chạm chùi sạch bụi đất tự nhiên, chiều hướng từ trên xuống dưới, từ phải qua trái, từ trước về sau, từ ngoài vào trong diện 23x9cm, điểm thấp nhất cách mặt đất 43cm, điểm cao nhất cách mặt đất 43cm, điểm gần nhất sát thành xe bên phải. Tại mặt lăn lốp phía trong bánh trước bên phải còn để lại vùng dịch dạng dãi, dớt, nước bọt lẫn thức ăn màu trắng.
Tại bản Kết luận giám định pháp y về tử thi số 66/GĐPY ngày 28/02/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hải Dương kết luận:
“1. Dấu hiệu chính qua giám định:
- Tử thi hai mắt nhắm, đồng tử hai bên giãn rộng.
- Biến dạng ngực phải, ngực phải. Vết thương tại mặt ngoài khuỷu tay.
- Vết thương tương ứng nếp bẹn phải xuống đến tầng sinh môn, để lộ tổ chức cân cơ dập nát và xương cánh chậu phải gãy, thông khoang bụng.
- Gãy phức tạp xương sườn từ số II đến số X bên phải; gãy xương sườn số II đến số IX cung trước bên trái; trật ổ khớp tay phải; gãy 1/3 dưới hai xương cẳng tay phải.
- Tổn thương phần mềm rải rác toàn thân.
2. Nguyên nhân chết:
Đa chấn thương (vết thương bụng hở, gãy nhiều xương sườn, chảy máu khoang ngực).
3. Cơ chế hình thành dấu vết Tổn thương dẫn đến tử vong của bà Tăng Thị Th là chấn thương ngực, bụng, cháy máu khoang ngực, gãy nhiều xương sườn. Tổn thương này do vật tày gây nên là phù hợp.” * Tiến hành xác minh, điều tra về chứng chỉ sơ cấp vận hành máy công trình số hiệu 7891163; số vào sổ cấp chứng chỉ 127/31583 cấp cho Đỗ Văn H sinh ngày 24/01/1993 do Trung tâm giáo dục nghề nghiệp CTA cấp ngày 15/11/2017:
Theo Công văn số 1310/SLĐTBXH-DN ngày 09/6/2022 của Sở Lao động- Thương binh và Xã hội tỉnh Bắc Ninh trả lời về việc xác minh liên quan đến nguồn gốc Chứng chỉ sơ cấp chương trình Vận hành máy công trình số 7891163 ngày 15/11/2017 cấp cho Đỗ Văn H thể hiện: Trung tâm Giáo dục nghề nghiệp CTA là trung tâm giáo dục nghề nghiệp đóng trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh và thành lập theo Quyết định số 1649/QĐ-UBND ngày 23/11/2007 của Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Ninh, đổi tên theo Quyết định số 950/QĐ-UBND ngày 10/7/2017 của UBND tỉnh Bắc Ninh; địa chỉ trụ sở: xã LTh, huyện LT, tỉnh Bắc Ninh. Đến thời điểm ngày 07/8/2017, Trung tâm Giáo dục nghề nghiệp CTA chưa được Sở Lao động- Thương binh và Xã hội tỉnh Bắc Ninh cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt động giáo dục nghề nghiệp đối với nghề vận hành máy công trình, trình độ sơ cấp. Thực hiện Luật Giáo dục nghề nghiệp (có hiệu lực từ ngày 01/7/2015), Tổng cục Giáo dục nghề nghiệp, Sở Lao động- Thương binh và Xã hội tỉnh Bắc Ninh đã có văn bản chỉ đạo, hướng dẫn các cơ sở giáo dục nghề nghiệp việc chuyển đổi cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt động giáo dục nghề nghiệp và triển khai đăng ký hoạt động giáo dục nghề nghiệp. Tuy nhiên đến thời điểm hiện tại Trung tâm giáo dục nghề nghiệp CTA chưa thực hiện việc chuyển đổi và chưa được Sở Lao động- Thương binh và Xã hội tỉnh Bắc Ninh cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt động giáo dục nghề nghiệp.
Tiến hành xác minh tại Công an xã LTh, huyện LT, tỉnh Bắc Ninh thể hiện: Trước đây Trung tâm Giáo dục nghề nghiệp CTA do ông Đỗ Văn Tr sinh năm 1973, đăng ký hộ khẩu: Thôn KT, xã LTh, huyện LT, tỉnh Bắc Ninh là Giám đốc, đã đăng ký và có trụ sở hoạt động tại xã LTh, huyện LT, tỉnh Bắc Ninh nH đến nay đã dừng hoạt động; trụ sở không còn tại địa bàn xã LTh, huyện LT, tỉnh Bắc Ninh; ông Đỗ Văn Tr hiện đi đâu, làm gì không rõ. Tại công văn số 14435 ngày 11/7/2022 của Cục Quản lý xuất nhập cảnh- Bộ Công an cung cấp thông tin đối với Đỗ Văn Tr xác định: Lần nhập cảnh gần nhất là ngày 28/5/2022 và lần xuất cảnh gần nhất là lúc 19 giờ 53 phút ngày 24/6/2022 tại Sân bay quốc tế Nội Bài.
* Tại Kết luận giám định số 135/KL-KTHS ngày 08/7/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hải Dương kết luận về đối tượng giám định là 01 chứng chỉ sơ cấp, số hiệu: 7891163 ngày 15/11/2017 do Giám đốc Trung tâm giáo dục nghề nghiệp CTA cấp cho Đỗ Văn H, sinh ngày 24/01/1993 (ký hiệu A) thể hiện:
“- Hình dấu tròn có nội dung “Trung tâm giáo dục nghề nghiệp CTA” trên mẫu cần giám định (ký hiệu A) với hình dấu có cùng nội dung trên mẫu so sánh (ký hiệu M1) là do cùng một con dấu đóng ra.
- Không đủ cơ sở kết luận chữ ký đứng tên Giám đốc Đỗ Văn Tr trên mẫu cần giám định (ký hiệu A) với chữ ký của Giám đốc Đỗ Văn Tr trên các mẫu so sánh (ký hiệu M1, M2) có phải do cùng một người ký ra hay không.” * Tại Kết luận giám định số 6295/KL-KTHS ngày 21/10/2022 của Viện Khoa học hình sự - Bộ Công an kết luận về đối tượng giám định là Chứng chỉ sơ cấp mang tên Đỗ Văn H ngày 15/11/2017 (ký hiệu A):
“5.1. Hình dấu tròn có nội dung “TRUNG TÂM GIÁO DỤC NGHỀ NGHIỆP CTA” trên mẫu cần giám định ký hiệu A so với hình dấu tròn có cùng nội dung trên mẫu so sánh ký hiệu M1 do cùng một con dấu đóng ra.
5.2. Chữ ký đứng tên Đỗ Văn Tr trên mẫu cần giám định ký hiệu A không phải là chữ ký trực tiếp, là hình dấu chữ ký.” Kết quả điều tra xác định Trung tâm giáo dục nghề nghiệp CTA chưa được cấp giấy chứng nhận hoạt động giáo dục nghề nghiệp đối với vận hành máy công trình và hình dấu tròn trên chứng chỉ thu giữ của Đỗ Văn H và hình dấu tròn của Trung tâm giáo dục nghề nghiệp CTA do cùng một con dấu đóng ra và chữ ký đứng tên Đỗ Văn Tr trên chứng chỉ thu giữ của H là hình dấu chữ ký. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương đã có văn bản gửi cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Lương Tài, tỉnh Bắc Ninh để xác minh và giải quyết theo thẩm quyền.
Cáo trạng số 57/CT-VKSTPHD ngày 27/3/2023 Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương truy tố bị cáo Đỗ Văn H về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm a khoản 2 Điều 260 của Bộ luật Hình sự; và tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức; tội sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” theo khoản 1 Điều 341 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện VKSND thành phố Hải Dương rút một phần quyết định truy tố đối với tội danh “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức” cho rằng bị cáo H chỉ thuê đối tượng khác làm giấy tờ giả chứ không trực tiếp in, khắc dấu, sản xuất giấy tờ giả nên không có hành vi làm giả chứng chỉ nêu trên, chỉ có hành vi sử dụng chứng chỉ giả sau đó thực hiện hành vi trái pháp luật. Đại diện VKSND thành phố Hải Dương đề nghị Hội đồng xét xử:
+ Về tội danh: Đề nghị tuyên bố bị cáo Đỗ Văn H phạm tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” và tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.
+ Về hình phạt chính: Căn cứ khoản 1 Điều 341; điểm a khoản 2 Điều 260; các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 38; khoản 1 Điều 55 Bộ luật Hình sự; Đề nghị xử phạt bị cáo Đỗ Văn H từ 09 tháng đến 12 tháng tù về tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” và từ 36 tháng đến 39 tháng tù về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”. Tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù từ 45 tháng đến 51 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày thi hành án.
+ Về hình phạt bổ sung: Không;
+ Xử lý vật chứng: Tiếp tục lưu giữ trong hồ sơ vụ án bản gốc Giấy phép lái xe mang tên Đỗ Văn H cho đến khi bị cáo chấp hành xong hình phạt chính.
+ Về án phí: Căn cứ Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo phải chịu 200.000đồng án phí sơ thẩm hình sự.
Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo H thành khẩn khai báo, xác định toàn bộ hành vi đã thực hiện như trong cáo trạng. Bị cáo rất ăn năn và xin chịu trách nhiệm trước pháp luật. Bị cáo nhất trí với các bản kết luận giám định, nội dung bản luận tội của VKSND thành phố Hải Dương, không có ý kiến gì về việc VKSND thành phố Hải Dương rút một phần quyết định truy tố, nói lời sau cùng xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng: Trong quá trình điều tra, truy tố, cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Hải Dương, Điều tra viên, VKSND thành phố Hải Dương, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không ai có khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đảm bảo tính hợp pháp.
[2] Về tố tụng: Tại phiên tòa, vắng mặt người đại diện theo ủy quyền của người đại diện theo pháp luật của bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng. Xét thấy, trong quá trình điều tra, những người vắng mặt đều đã có lời khai rõ ràng về các vấn đề liên quan đến vụ án, có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt. Xét việc những người này vắng mặt không gây trở ngại cho việc xét xử, căn cứ các điều 292, 293 của Bộ luật Tố tụng hình sự, HĐXX xét xử vụ án theo thủ tục chung.
[3] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong giai đoạn điều tra, truy tố; phù hợp với sơ đồ hiện trường, biên bản khám nghiệm hiện trường, biên bản khám phương tiện liên quan đến tai nạn giao thông, biên bản khám nghiệm tử thi, các bản kết luận giám định, bản ảnh hiện trường, bản ảnh phương tiện, biên bản giải trình hình ảnh camera, lời khai của người đại diện của người bị hại, lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ được thu thập hợp pháp khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:
Khoảng tháng 4/2017, thông qua mạng xã hội Facebook, Đỗ Văn H liên hệ, cung cấp thông tin cá nhân, ảnh chân dung của bản thân cho một người phụ nữ tên H5 qua số điện thoại 0976.395.X (không biết họ, tên, tuổi, địa chỉ cụ thể) để thuê làm giả 01 Chứng chỉ sơ cấp vận hành máy công trình số hiệu 7891163; số vào sổ cấp chứng chỉ 127/31583 do Trung tâm Giáo dục nghề nghiệp CTA cấp ngày 15/11/2017 cho Đỗ Văn H. Tháng 01/2022, H sử dụng chứng chỉ trên để xin việc làm, được anh Đào Văn D, sinh năm 1974, trú tại khu KL, phường TH, thành phố Hải Dương thuê và giao cho điều khiển máy xúc đào bánh lốp nhãn hiệu Daewoo Solar 210W-V, số khung SL210W-V-1329, số máy DB58TI403853EG. Khoảng 6 giờ 50 phút ngày 25/02/2022 tại khu vực trước cổng Công ty TNHH MTV xuất khẩu gỗ Hải Dương ở đường ĐL, thuộc xã GX, thành phố Hải Dương H điều khiển máy xúc đào bánh lốp nêu trên (xe không biển số) vượt xe không đảm bảo an toàn, không chú ý quan sát nên phần chân vịt bên phải xe máy xúc va chạm vào phía sau xe đạp do bà Tăng Thị Th điều khiển đang đi phía trước cùng chiều; hậu quả bà Th tử vong, xe đạp và máy xúc đào bị hư hỏng nhẹ.
Tài liệu, giấy tờ của cơ quan, tổ chức mà H thuê và cùng tham gia làm giả và sử dụng rồi thực hiện hành vi trái pháp luật bị cơ quan điều tra thu giữ là: 01 bản gốc 01 chứng chỉ sơ cấp vận hành máy công trình số hiệu 7891163; số vào sổ cấp chứng chỉ 127/31583 do Trung tâm Giáo dục nghề nghiệp CTA cấp ngày 15/11/2017 mang tên Đỗ Văn H.
Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được muốn được cấp chứng chỉ vận hành máy công trình thì phải tham gia học lớp đào tạo nghề vận hành máy móc công trình và đạt điểm kiểm tra theo quy định của Luật Giao thông đường bộ, nH bị cáo không thực hiện mà cố ý liên hệ với đối tượng thuê làm chứng chỉ vận hành máy công trình giả cho bị cáo. Mặc dù bị cáo không trực tiếp tham gia vào tất cả quá trình làm ra chứng chỉ giả cho bị cáo nhưng bị cáo đã chủ động liên hệ, kết hợp với một người không rõ nhân thân, lai lịch (như bị cáo khai tên là H5), chụp ảnh chân dung và viết thông tin cá nhân của mình (họ tên, ngày tháng năm sinh, nơi cư trú) cung cấp cho người khác để làm chứng chỉ nghề giả, như vậy là đã tham gia vào quá trình làm giả tài liệu trên; sau khi có chứng chỉ giả bị cáo sử dụng để xin việc làm, điều khiển xe máy xúc đào bánh lốp (là loại xe máy chuyên dụng) tham gia giao thông đường bộ và vi phạm Luật Giao thông đường bộ gây hậu quả nghiêm trọng làm một người chết, tài sản của người khác bị hư hỏng. Hành vi làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức; sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức của bị cáo H là một chuỗi các hành vi nối tiếp nhau nhằm mục đích cuối cùng là được cấp chứng chỉ giả, xâm phạm cùng một khách thể được pháp luật hình sự bảo vệ là Trật tự quản lý hành chính của Nhà nước về giấy tờ, tài liệu. Do đó, bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về một tội danh đầy đủ với một mức hình phạt đối với tất cả hành vi phạm tội nêu trên. Bị cáo phạm tội đối với 01 giấy tờ giả nên hành vi đủ yếu tố cấu thành tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức; tội sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” quy định tại khoản 1 Điều 341 Bộ luật Hình sự.
Đối với hành vi vi phạm giao thông: Hành vi của bị cáo đã vi phạm quy định tại khoản 2 Điều 14, khoản 1 Điều 62 Luật Giao thông đường bộ. Bị cáo điều khiển xe máy chuyên dụng khi bản thân không được cấp chứng chỉ vận hành máy móc công trình hợp lệ; và khi tham gia giao thông, bị cáo điều khiển vượt xe không đảm bảo an toàn dẫn đến phần đầu bên phải máy xúc đang điều khiển va chạm vào phía sau xe đạp do bà Tăng Thị Th điều khiển phía trước cùng chiều; hậu quả bà Th tử vong, xe đạp và máy xúc đào bị hư hỏng nhẹ. Như vậy, hành vi này của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” quy định tại điểm a khoản 2 Điều 260 Bộ luật Hình sự.
Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử thấy việc VKSND thành phố Hải Dương rút một phần quyết định truy tố về tội danh “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức”; đề nghị tuyên bố bị cáo phạm tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” là không đầy đủ, không phù hợp, Hội đồng xét xử không chấp nhận. VKSND thành phố Hải Dương truy tố bị cáo H về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm a khoản 2 Điều 260 BLHS là đúng pháp luật.
[4] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến trật tự quản lý hành chính của nhà nước về con dấu và tài liệu được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội, gây khó khăn cho công tác quản lý giấy tờ, tài liệu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; khi tham gia giao thông gây tai nạn với hậu quả nghiêm trọng (làm một người chết, tài sản của người khác bị hư hỏng), trực tiếp xâm phạm đến trật tự an toàn giao thông đường bộ. Vì vậy, cần thiết phải áp dụng mức hình phạt nghiêm khắc, tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo.
[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không.
Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra, truy tố, xét xử, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về các hành vi phạm tội của mình; tự nguyện bồi thường cho gia đình người bị hại, được gia đình người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt. Do đó, bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
[6] Căn cứ vào quy định của Bộ luật Hình sự, cân nhắc tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân bị cáo cũng như nguyên nhân, mục đích phạm tội, thấy bị cáo là người coi thường trật tự, kỷ cương của pháp luật nên cần thiết áp dụng hình phạt tù có thời hạn, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống chung của xã hội trong một khoảng thời gian nhất định để nhà nước giáo dục, cải tạo bị cáo qua đó đảm bảo công tác đấu tranh, phòng ngừa tội phạm chung.
[7] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là lao động tự do, không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định, không có tài sản riêng, mục đích làm giả tài liệu là để đi xin việc làm, kiếm thêm thu nhập, do đó, HĐXX không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo là phù hợp.
[8] Trách nhiệm dân sự:
- Quá trình điều tra, bị cáo đã tự nguyện bồi thường tất cả chi phí mai táng, tổn thất tinh thần, tiền sửa chữa phương tiện và các khoản chi phí khác cho gia đình người bị hại với tổng số tiền 150.000.000đồng; người đại diện của gia đình bà Th là anh Hoàng Văn L1 đã nhận đủ số tiền. Tại đơn đề nghị giải quyết vắng mặt, anh L1 có quan điểm đề nghị bị cáo hỗ trợ thêm cho gia đình một khoản tiền để gia đình lo cho công việc của bà Th được chu tất. Nếu bị cáo khó khăn quá và không có khả năng thì anh không yêu cầu bồi thường gì. Tại phiên tòa, bị cáo H trình bày: Sau khi tai nạn xảy ra, bị cáo đã rất ân hận và đã đến phúng viếng, thăm hỏi, tích cực bồi thường cho gia đình bà Th. Hoàn cảnh kinh tế gia đình của bị cáo cũng rất khó khăn, hiện nay không còn khả năng để hỗ trợ thêm về tiền cho gia đình bà Th, mong gia đình bà thông cảm, chia sẻ. Sau khi chấp hành án phạt tù xong, bị cáo sẽ về thắp hương cho bà Th.
- Đối với chiếc máy xúc đào bánh lốp bị xây xát, hư hỏng nhẹ, anh D không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì.
Như vậy, về vấn đề dân sự đã giải quyết xong, nên HĐXX không xem xét.
[9] Về vật chứng và các vấn đề khác:
- Đối với chiếc xe đạp của bà Th và xe máy xúc đào bánh lốp nhãn hiệu Daewoo Solar 210W-V của anh D: Trong giai đoạn điều tra, cơ quan điều tra đã trả lại xe đạp cho đại diện gia đình bị hại là anh L1, trả xe máy xúc đào cho anh D là đúng, HĐXX không xem xét.
- Đối với anh Đào Văn D khi thuê H làm việc và giao máy xúc đào cho H, anh không biết việc H sử dụng Chứng chỉ sơ cấp vận hành máy công trình giả, nên không có căn cứ xử lý.
- Người phụ nữ tên H5 liên hệ làm chứng chỉ giả cho H theo lời khai của bị cáo, kết quả điều tra không làm rõ được họ, tên, địa chỉ cụ thể của người này nên không có căn cứ xử lý.
- Đối với số điện thoại 0976.395.X H khai đã liên hệ để làm chứng chỉ giả, kết quả điều tra xác định chủ thuê bao là chị Vũ Thị Hương Việt, sinh năm 1988 ở thị trấn nông trường Trần Phú, huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái. Hiện chị Việt không có mặt tại nơi cư trú, gia đình, địa phương không biết chị Việt đi đâu nên không có căn cứ tiếp tục xác minh.
- Theo thông tin Cục Quản lý xuất nhập cảnh- Bộ Công an cung cấp: Có thông tin cấp hộ chiếu và xuất nhập cảnh của Đỗ Văn Tr. Ông Trọng xuất cảnh lần cuối cùng vào ngày 24/6/2022, chưa có thông tin nhập cảnh trở lại Việt Nam. Kết quả điều tra xác định Trung tâm giáo dục nghề nghiệp CTA chưa được cấp giấy chứng nhận hoạt động giáo dục nghề nghiệp đối với vận hành máy công trình và hình dấu tròn trên chứng chỉ thu giữ của Đỗ Văn H và hình dấu tròn của Trung tâm giáo dục nghề nghiệp CTA do cùng một con dấu đóng ra và chữ ký đứng tên Đỗ Văn Tr trên chứng chỉ thu giữ của H là hình dấu chữ ký. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương đã có văn bản gửi cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Lương Tài, tỉnh Bắc Ninh để xác minh và giải quyết theo thẩm quyền, là phù hợp, nên HĐXX không xem xét.
- Đối với Chứng chỉ sơ cấp vận hành máy công trình số 7891163 do Trung tâm giáo dục nghề nghiệp CTA cấp ngày 15/11/2017 cho Đỗ Văn H là chứng cứ chứng minh tội phạm, nên tiếp tục được lưu giữ trong hồ sơ vụ án.
- Đối với Giấy phép lái xe ô tô hạng C do Sở giao thông vận tải Hải Dương cấp mang tên Đỗ Văn H: Do bị cáo phải chấp hành hình phạt tù có thời hạn, nên cần tiếp tục quản lý, lưu giữ trong hồ sơ vụ án bản gốc giấy phép lái xe này cho đến khi bị cáo chấp hành xong hình phạt tù.
[9] Về án phí: Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 341; điểm a khoản 2 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 38; Điều 55 của Bộ luật Hình sự; các điều 135, 136, 292, 293, 331 và 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Tuyên bố: Bị cáo Đỗ Văn H phạm tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức; tội sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”; và tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.
Xử phạt bị cáo Đỗ Văn H 06 (sáu) tháng tù về tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức; tội sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” và 36 (ba mươi sáu) tháng tù về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.
Tổng hợp hình phạt của hai tội, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt 42 (bốn mươi hai) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày đi thi hành án.
2. Tiếp tục quản lý, lưu giữ trong hồ sơ vụ án bản gốc Giấy phép lái xe ôtô hạng C số 300180002439 do Sở Giao thông vận tải Hải Dương cấp ngày 31/5/2018, có giá trị đến ngày 31/5/2023, mang tên Đỗ Văn H cho đến khi bị cáo chấp hành xong hình phạt tù.
3. Về án phí: Bị cáo Đỗ Văn H phải chịu 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 20/7/2023); Người đại diện theo pháp luật của bị hại có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận bản án hoặc ngày bản án được niêm yết; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo phần bản án liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.
Bản án về tội làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức số 113/2023/HS-ST
Số hiệu: | 113/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Hải Dương - Hải Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 20/07/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về