Bản án về tội làm giả con dấu tài liệu của cơ quan, tổ chức số 227/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN NAM TỪ LIÊM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 227/2022/HS-ST NGÀY 08/11/2022 VỀ TỘI LÀM GIẢ CON DẤU TÀI LIỆU CỦA CƠ QUAN, TỔ CHỨC

Ngày 08 tháng 11 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 227/2022/TLST-HS ngày 13 tháng 10 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 233/2022/QĐXXST-HS ngày 24 tháng 10 năm 2022 đối với bị cáo:

Nguyễn Hồng Q - Sinh năm: 1987; HKTT: Tổ C, phường Đ, thành phố Y, tỉnh Yên Bái; Nơi ở hiện tại: Lãm T, xã V, huyện Q, tỉnh Bắc Ninh; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ: 12/12; Nghề nghiệp: Tự do; Bố: Nguyễn Quang V (đã chết); Mẹ: Phạm Thị Y. Gia đình có 04 chị em, bị cáo là con út; Vợ: Dương Thị C (đã ly hôn 2020); Có 04 con (lớn nhất sinh năm 2008, nhỏ nhất sinh năm 2016); Tiền án, tiền sự: Chưa.

Nhân thân: Bản án số 163/2022/HSST ngày 25/5/2022, TAND thành phố Hà Nội tuyên phạt 08 năm tù về tội “Mua bán người dưới 18 tuổi”, bị cáo hiện đang kháng cáo (chưa có kết quả xét xử theo thủ tục phúc thẩm).

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 25/7/2022. Hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam số 1 – Công an thành phố H. Bị cáo có mặt tại phiên tòa;

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (đều vắng mặt)

+ Chị Dương Thị D, sinh năm 1975.

+ Anh Vũ Văn H, sinh năm 1974.

Cùng địa chỉ: Thôn E, xã Q, TP, tỉnh Hưng Yên.

+ Chị Nguyễn Thị S, sinh năm 1991.

Địa chỉ: Thôn M, xã X, huyện B, tỉnh Lào Cai.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 25/5/2022, Nguyễn Hồng Q bị Toà án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm và tuyên phạt 8 năm tù về tội “Mua bán người dưới 16 tuổi”. Do đang kháng cáo nên Q được áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú. Trong thời gian được tại ngoại, Q sử dụng Facebook tham gia vào các hội nhóm cho nhận con nuôi thì được biết chị Dương Thị D, sinh năm: 1975; HKTT: Q, thành phố H, tỉnh Hưng Yên hiếm muộn, đang có nhu cầu nhận nuôi một cháu bé trai. Ngày 19/7/2022, Q sử dụng tài khoản Facebook “Ánh L” chủ động nói chuyện với chị D hỏi về nguyện vọng của gia đình, đồng thời tư vấn về dịch vụ nhận con nuôi. Sau đó, Q tìm trong các hội nhóm cho nhận con nuôi thì thấy chị Nguyễn Thị S, sinh năm 1991; HKTT: Tam Bố, Di L, Lâm Đồng sử dụng tài khoản facebook “Thúy N” đăng tin tìm người nhận nuôi cháu Hà Tuấn B (sinh ngày 29/4/2022 nhưng chưa làm giấy khai sinh). Q tiếp tục sử dụng Facebook “Ánh L1” nói chuyện với chị S và chị S đã đồng ý bán con cho người khác nuôi với giá 30.000.000 đồng. Ngày 20/7/2022, Q nhắn tin gửi hình ảnh cháu B cho chị D xem và nói sẽ hỗ trợ làm giấy chứng sinh. Chị D đồng ý và thống nhất sẽ nhận nuôi cháu B với giá 45.000.000 đồng, cả 2 hẹn gặp nhau tại thành phố H. Để làm giấy chứng sinh, Q yêu cầu chị D cung cấp thông tin bố mẹ đứng tên cho con, chị D đã cung cấp thông tin của mình và chồng là anh Vũ Văn H (SN: 1974; HKTT: Q, thành phố H, tỉnh Hưng Yên). Sau đó, Q vào trang Facebook “Cho nhận con nuôi bốn phương” để đăng bài mua giấy chứng sinh giả, sau khi đăng bài thì một người sử dụng tài khoản facebook (hiện Q không nhớ tên tài khoản, không rõ nhân thân lai lịch) đã liên hệ với Q nói về việc người đó có bán tất cả các phôi giấy chứng sinh. Q hỏi mua 02 tờ giấy chứng sinh, đóng sẵn dấu của bệnh viện T1, Hà Nội với giá 250.000 đồng/01 tờ, Q cung cấp số điện thoại 0909069X và 0878716X để nhận giấy chứng sinh và hẹn giao giấy tại gần khu vực Bến xe M, ngã tư P - N, phường M, quận N, thành phố Hà Nội. Khoảng 11 giờ trưa ngày đầu tháng 6/2022 (Q không nhớ cụ thể ngày), Q nhận giấy chứng sinh từ người giao hàng và thanh toán tiền mặt cho người gửi qua người giao hàng số tiền 500.000 đồng. Trên Giấy chứng sinh có nội dung Sở Y1, Bệnh viện T1, có dấu đỏ in Bệnh viện T1 ở cuối tờ giấy chứng sinh và dấu đỏ giáp lai Bệnh viện T1 nằm ở mép bên phải của giấy chứng sinh, trên giấy có các mục điền thông tin cá nhân, phần bên dưới giấy chứng sinh đã có chữ ký của những người đỡ đẻ, người ghi phiếu, chữ ký Trưởng phòng Kế hoạch tổng hợp Nguyễn Thị Thanh T và dấu đỏ của Bệnh viện T1. Q đã điền thông tin vào giấy chứng sinh giả thứ nhất tại quán nước chè gần phòng trọ ở Bắc Ninh nhưng do viết sai số căn cước công dân của chị D nên Q đã xé bỏ và tiếp tục điền thông tin vào tờ giấy chứng sinh giả thứ hai nội dung: “Số 266, quyển số 03, thông tin cá nhân, số căn cước công dân của chị D, họ tên cha là Vũ Văn H (chồng chị D), sinh con vào lúc 16 giờ 30 phút, ngày 12 tháng 7 năm 2022, tại Bệnh viện T1, số con trong lần sinh này: 01, giới tính của con: Nam, cân nặng 3200g, Dự tính đặt tên con là Vũ Văn M, ghi chú: CD-CC/PT, Hà Nội ngày 16 tháng 07 năm 2022”.

Ngày 21/7/2022, Q gọi xe taxi của anh Nguyễn Mạnh H1, sinh năm: 1977; HKTT: TDP P, phường N, TP Y, tỉnh Yên Bái đến đón chị S đi về quảng trường Nguyễn Văn L2 thuộc địa phận phường H, thành phố H, tỉnh Hưng Yên để gặp gia đình chị D và làm thủ tục giao nhận cháu B. Khi gặp nhau, Q hướng dẫn chị S viết tay giấy cam kết cho gia đình chị D nhận nuôi cháu B, Q được gia đình chị D đưa cho 45.000.000 đồng theo thỏa thuận và gửi thêm 1.000.000 đồng là chi phí đi lại. Hai bên viết giấy tờ xong thì chị S giao cháu B cho gia đình chị D, đồng thời Q đưa cho gia đình chị D giấy chứng sinh mà Q tự viết trước đó để sau này gia đình chị D đi làm giấy khai sinh cho cháu B. Tiếp đó, Q và chị S lên xe taxi đi về đường Đ thuộc địa phận phường M, quận N, thành phố Hà Nội. Khi đến khu vực cổng đường Đ thì Q đưa cho chị S 26.000.000 đồng, đã trừ đi 4.000.000 đồng tiền taxi, Q hưởng lợi 16.000.000 đồng. Nhận tiền xong, Quang dẫn chị S vào nhà nghỉ B1 ở ngõ B Đ, M, N, Hà Nội để thuê phòng nghỉ ngơi, còn Q đi về phòng trọ ở Bắc Ninh. Số tiền hưởng lợi từ công môi giới cho và nhận con nuôi Q đã chi tiêu cá nhân hết. Do lo sợ việc cho cháu B làm con nuôi bị gia đình phát hiện nên ngày 21/7/2022, chị S đã đến Công an phường M trình báo bị 02 đối tượng đi xe máy giật mất cháu B đang bế trên tay. Ngay sau khi tiếp nhận tin báo, Công an phường M phối hợp với Đ - Công an quận N tiến hành điều tra làm rõ nội dung vụ việc, xác định nội dung trình báo là không đúng sự thật. Sau khi đấu tranh, chị S đã tự thú về việc mang cháu B đi bán cho người khác.

Ngày 24/7/2022, Nguyễn Hồng Q đã đến Công an quận N đầu thú và khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên. Nguyễn Hồng Q đã đặt mua 02 giấy chứng sinh nhưng Q không chứng minh được người bán. Do đó Q phải chịu trách nhiệm về hành vi “Làm giả con dấu, tài liệu của Cơ quan tổ chức”.

Ngày 26/7/2022, chị Dương Thị D và anh Vũ Văn H đã giao lại cháu Hà Tuấn B cho gia đình cháu B là anh Hà Đức H2 (SN: 1986) và anh Hà Mạnh H3 (SN: 1984) cùng địa chỉ tại thôn M, xã X, huyện B, tỉnh Lào Cai.

Vật chứng thu giữ:

- Thu giữ của chị Nguyễn Thị S: 01 điện thoại Iphone 6 Plus màu vàng; 01 giấy chứng sinh có con dấu của Bệnh viện Đ1, Lào Cai; Số tiền 25.900.000 đồng;

- Thu giữ của chị Dương Thị D: 01 bản cam kết do người viết ký tên là Nguyễn Thị S; 01 hóa đơn bán hàng của Bệnh viện Đ1; 01 giấy chứng sinh của bệnh viện T1.

Tại bản Kết luận giám định số 6129/KL-KTHS ngày 07 tháng 9 năm 2022 của Phòng K - Công an thành phố H kết luận: Hình dấu tròn “BỆNH VIỆN THANH NHÀN” trên mẫu cần giám định với hình dấu tròn “BỆNH VIỆN THANH NHÀN” trên mẫu so sánh không phải do cùng một con dấu đóng ra; Chữ viết phần nội dung trên mẫu cần giám định với chữ viết đứng tên Nguyễn Hồng Q trên các mẫu so sánh là chữ do cùng một người viết ra.

Đối với hành vi Mua bán người dưới 16 tuổi, theo Nghị quyết số 02/2019/NQ- HĐTP ngày 11/01/2019 của Tòa án nhân dân Tối cao, Hội đồng Thẩm phán quyết nghị tại Khoản 3, Điều 7 như sau: “Người mà biết người khác thật sự có nhu cầu nuôi con nuôi (do hiếm muộn hoặc có lòng yêu trẻ) đã môi giới cho người này xin con nuôi của người vì hoàn cảnh gia đình khó khăn không có điều kiện nuôi con muốn cho con đẻ của mình đi làm con nuôi và có nhận một khoản tiền từ việc cho con và việc môi giới. Đây là trường hợp vì mục đích nhân đạo nên người môi giới, người cho con mình đi làm con nuôi và người nhận con nuôi không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mua bán người dưới 16 tuổi”. Tại Cơ quan điều tra chị S khai do hoàn cảnh khó khăn không thể nuôi con, muốn con có cuộc sống tốt hơn nên mới thỏa thuận cho cháu B để làm con nuôi. Vợ chồng chị Dương Thị D và anh Vũ Văn H do hoàn cảnh hiếm muộn nên có nhu cầu xin con về để nhận nuôi. Do đó, Cơ quan điều tra không xem xét xử lý đối với Nguyễn Hồng Q, chị Nguyễn Thị S, chị Dương Thị D và anh Vũ Văn H về hành vi Mua bán người dưới 16 tuổi.

Đối với chị Dương Thị D và anh Vũ Văn H, quá trình điều tra xác định chị D và anh H không biết Nguyễn Hồng Q làm giả giấy chứng sinh và chưa sử dụng giấy chứng sinh giả do Q cung cấp vào mục đích khác nên Cơ quan điều tra không xem xét, xử lý.

Đối với hành vi của chị Nguyễn Thị S trình báo thông tin sai sự thật với Cơ quan điều tra về việc cháu B bị cướp. Ngày 16/9/2022, Cơ quan điều tra – Công an quận N đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Báo thông tin giả, không đúng sự thật đến các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền”, quy định tại điểm c khoản 3 Điều 7 Nghị định 144/2021/NĐ-CP ngày 31/12/2021 của Chính phủ. Mức xử phạt 2.500.000đ.

Ngày 19/9/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận N đã ra Quyết định xử lý vật chứng số 141 trao trả 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 Plus màu xám và 01 giấy chứng sinh có con dấu của bệnh viện Đ1, Lào Cai cho chị Nguyễn Thị S.

Về dân sự: Chị Dương Thị D và anh Vũ Văn H yêu cầu Nguyễn Hồng Q phải hoàn trả số tiền 46.000.000 đồng.

Tại bản cáo trạng số 227/CT-VKS ngày 06/10/2022 của Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm truy tố bị cáo Nguyễn Hồng Q về tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức” theo quy định tại khoản 1 điều 341 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên toà, bị cáo Nguyễn Hồng Q khai nhận hành vi của mình, thành khẩn nhận tội và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quan điểm như cáo trạng truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Khoản 1 Điều 341; Điều 38; Điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 47, Điều 48 BLHS 2015 và khoản 2 Điều 106 BLTTHS; Xử phạt: Nguyễn Hồng Q từ 12 tháng đến 15 tháng tù. Miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

* Về dân sự:

+ Tuyên hoàn trả cho chị Dương Thị D và anh Vũ Văn H4 số tiền 25.900.000đ do chị S tự nguyện nộp.

+ Truy thu của chị Nguyễn Thị S số tiền 100.000đ để trả cho chị D và anh H4.

+ Buộc bị cáo Nguyễn Hồng Q phải trả lại cho chị D và anh H4 số tiền là 20.000.000đ.

Lời nói sau cùng của bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử; Xét thấy Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng và đầy đủ trình tự thủ tục tố tụng theo quy định của pháp luật. Các hành vi, quyết định tố tụng đều hợp pháp, đảm bảo việc điều tra, truy tố vụ án đúng quy định. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không khiếu nại gì về hành vi, quyết định của những người tiến hành tố tụng nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Hồng Q khai nhận hành vi phạm tội như Cáo trạng truy tố. Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản thu giữ vật chứng, kết luận định giá tài sản, phù hợp với lời khai của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người làm chứng cùng các tài liệu khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở kết luận:

Ngày 20/7/2022, tại khu vực Bến xe M, ngã tư P -N, phường M, quận N, thành phố Hà Nội, Nguyễn Hồng Q đã lên mạng internet đặt mua phôi giấy chứng sinh của Bệnh viện T1 – Sở Y tế thành phố Y1 của một đối tượng (hiện chưa xác định được lai lịch) sau đó Quang điền các thông tin để làm giả giấy chứng sinh trên nhằm mục đích để chị Dương Thị D và anh Vũ Văn H làm thủ tục nhận nuôi cháu Hà Tuấn B là con chị Nguyễn Thị S. Q nhận 46.000.000 đồng tiền công môi giới việc cho nhận con nuôi từ chị D và anh H; Q hưởng lợi 16.000.000 đồng, đưa cho chị S 26.000.000 đồng.

[3] Đánh giá về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng các tình tiết giảm nhẹ hình phạt tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS.

Tuy nhiên bị cáo có nhân thân xấu, cụ thể: Ngày 25/5/2022, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội tuyên phạt 08 năm tù về tội Mua bán người dưới 18 tuổi (Bản án số 163/2022/HSST), bị cáo hiện đang kháng cáo. Nên cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục bị cáo trở thành người tốt cho xã hội.

[4] Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo đã được phân tích ở trên thì phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn trong khung hình phạt được quy định tại khoản 1 điều 341 của BLHS. [5] Về trách nhiệm dân sự:

+ Hoàn trả cho cho chị Dương Thị D và anh Vũ Văn H4 số tiền 25.900.000đ do chị S tự nguyện nộp.

+ Truy thu của chị Nguyễn Thị S số tiền 100.000đ để trả cho chị D và anh H4.

+ Buộc bị cáo Nguyễn Hồng Q phải trả lại cho chị D và anh H4 số tiền 20.000.000đ.

[6] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo là lao động tự do, không có thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo.

[7] Về đề nghị của đại diện Viện kiểm sát đối với vụ án: Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm đề nghị Hội đồng xét xử tuyên phạt bị cáo Nguyễn Hồng Q từ 12 đến 15 tháng tù là phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định.

[9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo Nguyễn Hồng Q và những Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Hồng Q phạm tội “Làm giả con dấu tài liệu của cơ quan, tổ chức”.

Áp dụng: Khoản 1 Điều 341; Điều 38; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 47, Điều 48 của Bộ luật Hình sự 2015 và khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử phạt: Nguyễn Hồng Q 12 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 25/7/2022.

Về hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo. Về trách nhiệm dân sự:

+ Hoàn trả cho chị Dương Thị D và anh Vũ Văn H4 số tiền 25.900.000đ do chị S tự nguyện nộp theo giấy nộp tiền vào tài khoản ngày 10/10/2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Nam Từ Liêm, TP . Hà Nội.

+ Truy thu của chị Nguyễn Thị S số tiền 100.000đ để trả cho chị D và anh H4.

+ Buộc bị cáo Nguyễn Hồng Q phải trả lại cho chị D và anh H4 số tiền là 20.000.000đ.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại các Điều 357 và Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

Trường hợp bản án , quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Về án phí: Bị cáo Nguyễn Hồng Q phải chịu 200.000 đồng án phí Hình sự sơ thẩm và 1.000.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Quyền kháng cáo:

Bị cáo Nguyễn Hồng Q có quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo những phần liên quan đến quyền lợi của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

26
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội làm giả con dấu tài liệu của cơ quan, tổ chức số 227/2022/HS-ST

Số hiệu:227/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Nam Từ Liêm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/11/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về