Bản án về tội lạm dụng tín nhiệm và lừa đảo chiếm đoạt tài sản số XXX/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN XXX/2022/HS-PT NGÀY 11/05/2022 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM VÀ LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 19 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội,xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩmđã thụ lý số 285/2022/TLPT- HS ngày 06/4/2022 đối với bị cáo Lê Hồng Q do có kháng cáo của bị cáo Lê Hồng Q đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 18/2022/HSST ngày 28/02/2022 của Tòa án nhân dân quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội:

* Bị cáo có kháng cáo:

Lê Hồng Q, sinh năm 1994 tại Hà Nội; HKTT và trú tại: Đội 3, xã TA, huyện ĐP, thành phố Hà Nội; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lê Hùng Đ; Con bà Trần Thị C; Gia đình có 03 anh, chị em, bị cáo là con thứ ba; Theo Danh chỉ bản số: 184 lập ngày 27/5/2021 tại Công an quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội và lý lịch địa phương cung cấp bị cáo chưa có tiền án, tiền sự; Bị bắt từ ngày 25/5/2021, hiện đang bị tạm giam; có mặt tại phiên tòa.

* Người bào chữa: Luật sư Ngô Văn T, Công ty Luật TNHH TL; bào chữa cho bị cáo; có mặt.

* Các bị hại:

- Anh Đỗ Đức D, sinh năm 1993; HKTT và trú tại: Thôn ĐM, xã UN, huyện ĐA, thành phố Hà Nội;

- Công ty TNHH NV;Trụ sở: Số 343 HHT, phường LG, quận BĐ, thành phố Hà Nội; Do ông Nguyễn Trọng T là người đại diện theo pháp luật; Người đại diện theo ủy quyền: Anh Nguyễn Hoài N;

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Anh Đinh Công L - sinh năm: 1992; Nơi ĐKHKTT và trú tại: Xóm H, xã ĐC, huyện ĐB, Hòa Bình;

(Các bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không kháng cáo và không liên quan đến kháng cáo của bị cáo nên Tòa án cấp phúc thẩm không triệu tập).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng tháng 3/2021, Lê Hồng Q xem trên mạng xã hội thấy anh Đỗ Đức D đăng tin cho thuê xe ô tô tự lái kèm theo số điên thoại liên lạc 090213xxxx. Q sử dụng số điện thoại 096220xxxx gọi điện cho anh D hỏi thuê xe ô tô để sử dụng chạy dịch vụ taxi Grap. Anh D đồng ý, hai bên thỏa thuận về thủ tục giấy tờ, giá thuê xe 7.500.000 đồng/tháng, không thỏa thuận thời hạn trả xe. Khi nhận xe, Q phải giao trước số tiền 8.000.000 đồng cho anh D. Trong đó, tiền đặt cọc là 5.000.000 đồng, trả trước tiền thuê xe là 3.000.000 đồng. Khoảng 18 giờ 00 ngày 14/3/2021, tại ngõ 699 Lạc LQuân, phường Phú Thượng, quận Tây Hồ, Hà Nội, Q đã giao cho anh D số tiền 6.000.000 đồng (Trong đó: Tiền đặt cọc là 5.000.000 đồng, trả trước tiền thuê xe là 1.000.000 đồng) và bản sao 01 căn cước công dân số 001094019335; 01 giấy phép lái xe; 01 sổ hộ khẩu mang tên Lê Hồng Q. Đồng thời Q viết 01 giấy biên nhận thuê xe đề ngày 14/3/2021, thời hạn thuê xe tính từ ngày 15/3/2021. Trong đó, chỉ ghi số tiền 5.000.000 đồng là tiền đặt cọc, không ghi số tiền 1.000.000 đồng tiền thanh toán trước tiền thuê xe để anh D lưu giữ. Sau khi nhận tiền, anh D đã giao cho Qxe ô tô Huyndai i10, BKS: 30A - 330.04 kèm theo bản sao giấy đăng ký xe, bản gốc giấy đăng kiểm và bảo hiểm. Ngày 18/3/2021, Q sử dụng tài khoản số 1902993507xxxx mở tại Ngân hàng Techcombank - Chi nhánh Đan Phượng chuyển đến tài khoản số 21513xxxx của anh Đỗ Đức D mở tại Ngân hàng VPBank số tiền 2.000.000 đồng để thanh toán tiền thuê xe. Q sử dụng xe ô tô trên chạy dịch vụ taxi Grab khoảng 10 ngày. Ngày 25/3/2021, do thiếu tiền ăn tiêu, Q nảy sinh ý định cầm cố xe ôtô để lấy tiền tiêu xài. Khoảng đầu giờ chiều cùng ngày, Q điều khiển xe ô tô Huyndai i10, BKS: 30A- 330.04 đến số 96 Nguyễn Huy Tưởng, phường Thanh Xuân Trung, quận Thanh Xuân, Hà Nội cầm cố cho anh Đinh Công L để vay số tiền 60.000.000 đồng, trong thời hạn 20 ngày. Tuy nhiên, Q chỉ nhận số tiền 50.000.000 đồng, còn lại số tiền 10.000.000 đồng Q phải trả trước tiền lãi cho L. Q đã viết giấy nhận cọc và đưa cho L giữ. Giấy tờ xe ô tô, Q để trên xe.

Q không biết trên xe có thiết bị định vị. Số tiền cầm cố xe ô tô trên, Q đã chi tiêu cá nhân hết, việc cầm cố xe không có người làm chứng.

Sau khi chi tiêu hết số tiền cầm cố xe ô tô Huyndai i10, BKS: 30A- 330.04, do cần tiền chi tiêu cá nhân nên Q đã nảy sinh ý định thuê xe ô tô tự lái rồi mang đi cầm cố. Khoảng cuối tháng 03/2021, Q xem trên mạng xã hội thấy anh Nguyễn Hoài N đăng tin cho thuê xe tự lái, kèm theo số điện thoại liên lạc 092282xxxx. Q sử dụng số điện thoại 096220xxxx gọi điện thoại cho anh N hỏi thuê xe để sử dụng chạy dịch vụ taxi Grab. Anh N đồng ý. Hai bên thỏa thuận về thủ tục giấy tờ, giá thuê xe 7.500.000 đồng/tháng, đặt cọc số tiền 5.000.000 đồng, thời hạn thuê xe là 03 tháng từ ngày 31/3/2021 đến ngày 30/6/2021. Khoảng 21h00’ ngày 31/3/2021, tại nhà số 343 HHT, phường LG, quận BĐ, Hà Nội, Q đã giao cho anh N số tiền 7.500.000 đồng (trong đó, tiền đặt cọc là 5.000.000 đồng, thanh toán trước tiền thuê xe là 2.500.000 đồng), 01 bản gốc giấy xác nhận nhân thân do ông Nguyễn Quang S - Phó trưởng Công an xã TA, ĐP, Hà Nội ký ngày 22/11/2018, 01 giấy chứng minh nhân nhân dân số 017315220 do CATP Hà Nội cấp ngày 23/8/2011; 01 giấy phép lái xe; 01 sổ hộ khẩu mang tên Lê Hồng Q. Anh N đã cho Q ký hợp đồng thuê xe không đề ngày, thời hạn thuê xe từ ngày 31/3/2021 đến ngày 30/6/2021, hợp đồng thuê xe do anh N lưu giữ. Sau đó, anh N đã bàn giao cho Qxe ô tô Kia Morning; BKS:

30A - 876.76 kèm theo bản sao giấy đăng ký xe, bản gốc giấy đăng kiểm và bảo hiểm. Ngày 01/4/2021, Q điều khiển xe ô tô trên đến ngõ 12 Khuất Duy Tiến, phường Thanh Xuân Trung, quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội cầm cố cho anh Đinh Công L để vay số tiền 60.000.000 đồng, trong thời hạn 20 ngày. Tuy nhiên, Q chỉ nhận số tiền 45.000.000 đồng, còn lại số tiền 15.000.000 đồng Q phải trả trước tiền lãi cho L. Q đã viết Giấy nhận cọc đề ngày 01/4/2021, giấy do L giữ. Q đã chi tiêu cá nhân hết số tiền cầm cố xe.

Sau khi cho Lê Hồng Q thuê xe ô tô, anh D và anh N kiểm tra định vị của xe ô tô xe ô tô Huyndai i10, BKS: 30A- 330.04 và xe ô tô Kia Morning; BKS: 30A - 876.76 thì phát hiện định vị đã bị tắt. Anh D, anh N liên lạc với Q thì được Q thông báo đã cầm cố xe ô tô, Q đã chi tiêu cá nhân hết số tiền cầm cố xe. Q không có khả năng khắc phục hậu quả và cũng không có tài sản để bảo đảm việc khắc phục hậu quả. Ngày 05 và 06 tháng 4 năm 2021, anh Đỗ Đức D và anh Nguyễn Hoài N đã đến cơ quan điều tra tố cáo Lê Hồng Q về hành vi chiếm đoạt tài sản.

* Cơ quan điều tra thu giữ các tài liệu, chứng cứ gồm:

- Thu giữ của anh Đỗ Đức D:

+ 01 bản gốc giấy biên nhận thuê xe ngày 14/3/2021 đề tên Lê Hồng Q.

+ 01 bản photo giấy căn cước công dân số 001094019335 mang tên Lê Hồng Q do Cục Cảnh sát QLHC về TTXH - Bộ Công an cấp ngày 6/12/2018.

+ 01 bản photo giấy phép lái xe số 010193005665 mang tên Lê Hồng Q do Sở Giao thông vận tải Tp Hà Nội cấp ngày 17/01/2019.

+ 01 bản photo sổ hộ khẩu số 243455781 mang tên chủ hộ Lê Hùng Đ; Trú Đội 3, TA, ĐP, Hà Nội (con: Lê Hồng Q).

+ 01 bản photo giấy đăng ký xe ô tô số 026227; loại xe Huyndai i10, BKS: 30A - 330.04; Chủ xe: Công ty PĐ do Phòng Cảnh sát giao thông CATP Hà Nội cấp ngày 06/9/2014.

+ 01 bản sao giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp do Sở Kế hoạch và đầu tư thành phố Hà Nội cấp cho Công ty PĐ.

+ 01 bản photo hợp đồng hợp tác kinh doanh số 1305/2020/PĐ/HTKD- HN ngày 13/5/2020; Bên A (Bên nhận góp vốn): Công ty PĐ; Bên B (Bên góp vốn): ông Đỗ Đức D.

+ 01 giấy ủy quyền của ông Đặng Tuấn A - Giám đốc, người đại diện theo pháp luật của Công ty PĐ.

- Thu giữ của anh Nguyễn Hoài N:

+ 01 bản gốc hợp đồng thuê xe không đề ngày; thời hạn thuê xe từ ngày 31/3/2021 đến ngày 30/6/2021; Bên cho thuê: Công ty NV; Bên thuê: Lê Hồng Q.

+ 01 bản gốc giấy xác nhận nhân thân ngày 22/11/2018 của Lê Hồng Q do ông Nguyễn Quang S - Phó trưởng Công an xã TA, ĐP ký xác nhận.

+ 01 bản photo giấy chứng minh nhân dân số 017315220 mang tên Lê Hồng Q do CATP Hà Nội cấp ngày 23/8/2011.

+ 01 bản photo sổ hộ khẩu số 243455781 mang tên chủ hộ Lê Hùng Đ; Trú Đội 3, TA, ĐP, Hà Nội (con: Lê Hồng Q).

+ 01 bản sao giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp do Sở Kế hoạch và đầu tư Tp Hà Nội cấp cho Công ty NV.

+ 01 bản photo giấy đăng ký xe số 145336; Loại xe Kia Morning, BKS:

30A- 876.76; Chủ xe: Công ty NV do Phòng Cảnh sát giao thông CATP Hà Nội cấp ngày 5/10/2015.

+ 01 giấy ủy quyền của ông Nguyễn Trọng T - Giám đốc, người đại diện theo pháp luật của Công ty NV.

- Ngày 17/4/2021, anh Đinh Công L đã tự nguyện giao nộp cho Cơ quan điều tra các tài sản, tài liệu sau:

- 01 xe ô tô Huyndai i10, BKS: 30A- 330.04;

- 01 bản sao giấy đăng ký xe (có xác nhận chứng thực bản sao của UBND phường Thanh Nhàn, Hà Nội);

- 01 bản gốc giấy biên nhận thế chấp ngày 16/11/2020 của Ngân hàng Techcombank - Chi nhánh Thăng Long;

- 01 bản gốc giấy chứng nhận đăng kiểm; 01 bản gốc giấy chứng nhận bảo hiểm.

- 01 xe ô tô Kia Morning; BKS: 30A - 876.76;

- 01 bản sao giấy đăng ký xe (có xác nhận chứng thực bản sao của UBND phường Nguyễn Du, Hà Nội);

- 01 bản gốc giấy biên nhận thế chấp ngày 5/11/2019 của Ngân hàng Vietcombank - Chi nhánh Sở giao dịch;

- 01 bản gốc giấy chứng nhận kiểm định; 01 bản gốc giấy chứng nhận bảo hiểm;

- Ngày 31/5/2021, L đã tự nguyện giao nộp cho Cơ quan điều tra: Bản gốc giấy nhận cọc ngày 01/4/2021 do Lê Hồng Q viết khi cầm cố xe oto Kia Morning; BKS: 30A - 876.76. Đối với giấy nhận cọc xe ô tô Huyndai i10, BKS: 30A- 330.04,anh Lkhai đã làm thất lạc. Do đó, Cơ quan điều tra không thu giữ được.

* Tại Kết luận định giá tài sản số 75/KL-HĐĐG ngày 16/4/2021 của Hội đồng định giá trong TTHS - UBND quận Tây Hồ kết luận:

- Giá 01 chiếc xe ô tô Huyndai i10, BKS: 30A- 330.04 là 200.000.000 (Hai trăm triệu) đồng.

- Giá 01 chiếc xe ô tô Kia Morning; BKS: 30A - 876.76 là 250.000.000 (Hai trăm năm mươi triệu) đồng.

* Cơ quan điều tra đã trưng cầu giám định số khung, số máy xe ô tô nhãn hiệu Huyndai i10, BKS: 30A - 330.04 và xe ô tô nhãn hiệu Kia Morning; BKS: 30A - 876.76. Tại Kết luận giám định số 3256/KL-PC09- Đ3 ngày 27/4/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự - CATP Hà Nội kết luận:

- Xe ô tô nhãn hiệu Huyndai i10; BKS: 30A - 330.04 có số khung: *MALA851AAFM145638* và số máy: G3LAEM176751 là số nguyên thủy.

- Xe ô tô nhãn hiệu Kia Moring; BKS: 30A - 876.76 có số khung: RNYTB51M5FC064138 và số máy: G4LA FP092426 là số nguyên thủy.

Cơ quan điều tra đã tiến hành giám định đối với các tài liệu thu giữ gồm: Giấy biên nhận thuê xe" ngày 14/3/2021; Giấy nhận cọc" đứng tên Lê Hồng Q đề ngày 01/04/2021; Giấy biên nhận thế chấp ngày 16/11/2020 của Ngân hàng Techcombank - Chi nhánh Thăng Long, kết quả:

Tại Kết luận giám định số 3954/KLGĐ-PC09-Đ3 ngày 20/5/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự - CATP Hà Nội kết luận:Chữ viết, chữ ký tại "Giấy biên nhận thuê xe" ngày 14/3/2021 đề tên Lê Hồng Q và hợp đồng thuê xe, bên cho thuê: Nguyễn Hoài N; bên thuê: Lê Hồng Q, đề năm 2021 so với mẫu chữ viết, chữ ký do Lê Hồng Q cung cấp là do cùng một người viết và ký ra.

Tại Kết luận giám định số 6089/KLGĐ-PC09-Đ3 ngày 02/8/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự - CATP Hà Nội kết luận:Chữ viết, chữ ký tại "Giấy nhận cọc" đứng tên Lê Hồng Q đề ngày 01/04/2021 so với mẫu chữ viết, chữ ký do Lê Hồng Q cung cấp là do cùng một người viết và ký ra.

Tại Kết luận giám định số 6278/KLGĐ-PC09-Đ3 ngày 13/8/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự - CATP Hà Nội kết luận:Con dấu đóng ra hình dấu tròn “NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN KỸ THƯƠNG VIỆT NAM CHI NHÁNH THĂNG LONG” trên mẫu so sánh ký hiệu M không đóng ra hình dấu tròn “CHI NHÁNH THĂNG LONG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN KỸ THƯƠNG VIỆT NAM” trên mẫu cần giám định ký hiệu A. Hình dấu cần giám định được tạo ra bằng phương pháp in màu kỹ thuật số.

Tại cơ quan điều tra, Lê Hồng Q khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên. Q khai: Đối với xe ô tô nhãn hiệu Huyndai i10, BKS: 30A- 330.04. Sau khi thuê xe ô tô, Q mới nảy sinh ý định chiếm đoạt xe ô tô đem đi cầm cố. Đối với xe ô tô nhãn hiệu Kia Morning; BKS: 30A - 876.76, Q đã nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản trước khi thuê xe ô tô trên.Khi cầm cố 02 xe ô tô trên cho Đinh Công L, Q không nói cho L biết 02 xe ô tô trên do Q phạm tội mà có, không ai biết và làm chứng việc Q cầm cố 02 xe ô tô trên cho L. Q không biết giấy biên nhận thế chấp ngày 16/11/2020 của Ngân hàng Techcombank - Chi nhánh Thăng Long do đâu mà có.

Đối với xe ô tô nhãn hiệu Huyndai i10, BKS: 30A- 330.04 và giấy tờ xe bị Lê Hồng Q chiếm đoạt. Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã xác minh làm rõ chủ sở hữu là Công ty CP thương mại và du lịch PĐ (Địa chỉ trụ sở chính: Số 488 BĐ, phường CD, HK, Hà Nội; Văn phòng: Số 160 - 164 NK, phường TL, HBT, Hà Nội) do anh Đặng Tuấn A - Giám đốc, người đại diện theo pháp luật. Ngày 13/5/2020, anh Đặng Tuấn A và anh Đỗ Đức D đã ký hợp đồng hợp tác kinh doanh. Cùng ngày, Công ty PĐ đã giao cho anh D 01 xe ô tô nhãn hiệu Huyndai i10, BKS: 30A- 330.04 được Phòng CSGT - CATP Hà Nội cấp giấy đăng ký xe số 026227, ngày 6/9/2014 để quản lý, khai thác kinh doanh.

Đối với xe ô tô Kia Morning; BKS: 30A - 876.76 cùng giấy tờ xe, Cơ quan điều tra đã xác minh làm rõ chủ sở hữu là Công ty NV do anh Nguyễn Hoài N là Phó giám đốc Công ty NV đã đăng tin trên mạng xã hội cho thuê xe tự lái.

Ngày 05/10/2021, Cơ quan điều tra đã trao trả cho Công ty PĐxe ô tô nhãn hiệu Huyndai i10, BKS: 30A- 330.04 và giấy tờ xe; trao trả cho Công ty NV xe ô tô Kia Morning; BKS: 30A - 876.76 cùng giấy tờ xe. Công ty PĐ, anh Đỗ Đức D, Công ty NV và anh Nguyễn Hoài N không yêu cầu bồi thường gì khác, không yêu cầu nhận lại đối với các giấy tờ, tài liệu đã giao nộp cho Cơ quan điều tra.

Đối với 01 giấy biên nhận thế chấp ngày 16/11/2020 của Ngân hàng Techcombank - Chi nhánh Thăng Long kết quả giám định là tài liệu giả. Ngày 10/12/2021, Cơ quan CSĐT - Công an quận Tây Hồ ra Quyết định bổ sung Quyết định khởi tố vụ án hình sự số 09 về tội Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức; sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan tổ chức. Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra chưa xác định được đối tượng làm giả con dấu, sử dụng tài liệu trên. Ngày 13/12/2021, Cơ quan CSĐT - Công an quận Tây Hồ ra Quyết định tách vụ án hình sự số 11 để tiếp tục điều tra và xử lý theo quy định của pháp luật.

Đối với Đinh Công L:Anh L thực hiện hoạt động cầm cố tài sản không có giấy phép kinh doanh. Khi nhận cầm cố tài sản của Q, L không biết 02 xe ô tô trên là tài sản do Q phạm tội mà có, đều viết giấy nhận cọc. L yêu cầu Lê Hồng Q trả cho L số tiền 95.000.000 đồng. Căn cứ lời khai của bị can Lê Hồng Q, lời khai Đinh Công L và các tài liệu chứng cứ xác định Đinh Công L có hành vi cầm cố 02 xe ô tô từ Lê Hồng Q để cho Q vay tổng số tiền 120.000.000 đồng, thời hạn vay 20 ngày, tiền lãi là 25.000.000 đồng tương đương lãi suất 380%/ năm, gấp 19 lần so với lãi suất cao nhất quy định tại Điều 468 Bộ luật dân sự. Tuy nhiên, số tiền L thu lợi bất chính dưới 30.000.000 đồng nên theo khoản 1 Điều 201 Bộ luật hình sự, Cơ quan điều tra không xử lý hình sự đối với Đinh Công L là có căn cứ. Anh yêu cầu bị cáo Q phải trả số tiền 95.000.000 đồng.

Ngoài 02 vụ việc đã nêu trên. Ngày 28/3/2021, tại số 225 Nguyễn Đức Cảnh, phường TM, HM, Hà Nội. Lê Hồng Q đã thuê xe ô tô Kia Morning, BKS: 30E - 449 - 20, trị giá khoảng 300.000.000 đồng của ông Nguyễn Quyết Th; SN: 1969; HKTT: Tổ 61 phường TM, HM, Hà Nội. Sau đó, Q đã cầm cố xe ô tô lấy tiền chi tiêu cá nhân. Vụ việc do Cơ quan CSĐT - Công an quận Hoàng Mai thụ lý. Ngày 20/8/2021, Cơ quan CSĐT - Công an quận Hoàng Mai ra quyết định khởi tố vụ án hình sự số 349 đối với Q.

* Tại Bản ánsố18/2022/HSST ngày 28/02/2022 của Tòa án nhân dân quận Tây Hồ đã quyết định:

- Tuyên bố bị cáo Lê Hồng Q phạm các tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” và Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”

- Áp dụng: khoản 3 Điều 175; điểm a khoản 3 Điều 174; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38của Bộ luật Hình sự 2015; Xử phạt bị cáo: Lê Hồng Q 05 (năm) năm tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” và 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Tổng hợp hình phạt chung của hai tội là 12 (mười hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 25/5/2021. Buộc bị cáo phải bồi thường cho anh Đinh Công L số tiền 95.000.000 (chín mươi năm triệu) đồng.

-Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn có các quyết định vềán phí hình sự và án phí dân sự sơ thẩm, quyền kháng cáo.

* Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 08/3/2022, bị cáo Lê Hồng Q có đơn kháng cáo xin được giảm nhẹ hình phạt. Các bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không kháng cáo; Viện kiểm sát không kháng nghị Bản án.

*Tại phiên tòa phúc thẩm:

- Bị cáo Lê Hồng Qgiữ nguyên kháng cáo,khai như đã khai tại phiên tòa sơ thẩm và tại Cơ quan điều tra. Bị cáo công nhận việc truy tố, xét xử như ở cấp sơ thẩm là đúng người, đúng tội, bị cáo không bị oan, chỉ xin được giảm nhẹmức hình phạt.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến: Về tố tụng:Kháng cáo của bị cáo là hợp lệ, cần được xem xét, giải quyết theo thủ tục phúc thẩm; Về nội dung: Bản án sơ thẩm kết án bị cáo về các tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”là có căn cứ, đúng pháp luật, mức hình phạt của Bản án sơ thẩm làphù hợp với tính chất mức độ và nhân thân của bị cáo. Tại cấp phúc thẩm người bào chữa cho bị cáo xuất trình tài liệu chứng cứ mới thể hiện sau khi xét xử sơ thẩm gia đình bị cáo đã bồi hoàn số tiền 95 triệu đồng theo quyết định của bản án sơ thẩm cho anh Đinh Công L. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểmb khoản 1 Điều 355; Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lê Hồng Qvề việc xin giảm nhẹ hình phạt. Sửa Bản án sơ thẩm theo hướng giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt. Áp dụng: khoản 3 Điều 175, điểm a khoản 3 Điều 174; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38, (Điều 54 đối với tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản) của Bộ luật Hình sự 2015; Xử phạt bị cáo 04 năm 06 tháng tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” và 07 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù chung của cả hai tội là 11 (mười một) năm 06 (sáu) tháng tù. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật nên không xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1].Về tố tụng:

Kháng cáo của bị cáo được làm trong thời hạn luật định, bảo đảm về chủ thể kháng cáotheo Điều 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; hình thức và nội dung đơn kháng cáo phù hợp với quy định của pháp luật. Do vậy, kháng cáo của bị cáo là hợp lệ, được Hội đồng xét xử xem xét giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.

[2].Về nội dung:

[2.1] Về tội danh đối với bị cáo:

Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm, phù hợp với lời khai của bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm, phù hợp lời khai củabị hại, những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, vật chứng đã thu giữ và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Ngày 14/3/2021, tại ngõ 699 Lạc LongQuân, phường Phú Thượng, quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội, Lê Hồng Q đã thuê 01 chiếc xe ô tô Hyundai i10, BKS: 30A - 330.04, trị giá: 200.000.000 đồng của anh Đỗ Đức D bằng hình thức thuê xe ô tô trên để sử dụng chạy dịch vụ taxi Grab. Sau khi thuê được xe ô tô, Q sử dụng chạy dịch vụ taxi Grab đến ngày 25/3/2021. Do cần tiều chi tiêu cá nhân, Q đã đem xe ô tô trên cầm cố cho anh Đinh Công Llấy 50.000.000 đồngrồi chi tiêu cá nhân hết.

Ngày 31/3/2021, tại số 343 HHT, phường LG, quận BĐ, thành phố Hà Nội, bằng thủ đoạn gian dối thuê xe ô tô để tự lái taxi, Lê Hồng Q đã có hành vi Lừa đảo chiếm đoạt tài sản 01 chiếc xe ô tô Kiamorning, BKS: 30A - 876.76, trị giá: 250.000.000 đồng của anh Nguyễn Hoài N.Ngay khi thuê được xe, Qđã đem chiếc xe ô tô trên đi cầm cố cho anh Đinh Công L lấy số tiền 45.000.000 đồng để chi tiêu cá nhân.

Theo Kết luận định giá tài sản xác định:Trị giá 01 chiếc xe ô tô Huyndai i10, BKS: 30A- 330.04 là 200.000.000 đồng; Trị giá 01 chiếc xe ô tô Kia Morning; BKS: 30A - 876.76 là 250.000.000 đồng.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, vi phạm luật hình sự, xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác, bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự đầy đủ, biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật, nhưng vẫn cố ý thực hiện tội phạm, nhiều lần chiếm đoạt tài sản của người khác với giá trị lớn. Do đó Tòa án cấp sơ thẩm kết án bị cáo về các tội: Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản và tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, theo quy định tại khoản 3 Điều 175 vàđiểm a khoản 3 Điều 174 Bộ luật hình sự năm 2015 là có căn cứ.

[2.2] Xét kháng cáo của bị cáo:

Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo có đơn kháng cáo xin được giảm nhẹ hình phạt,Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm xét thấy:

- Khi quyết định hình phạt, Toà án cấp sơ thẩm đã xem xét trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tài sản bị cáo chiếm đoạt đã thu hồi trả cho các bị hại để từ đó áp dụng điểm s khoản 1 và khoản 2Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt và xử phạt bị cáo 05 (năm) năm tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” và 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Tổng hợp hình phạt chung của hai tội là 12 (mười hai) năm 06 (sáu) tháng tù là phù hợp.

- Tại cấp phúc thẩm, xét thấy: Sau khi xét xử sơ thẩm gia đình bị cáo đã hoàn trả số tiền 95.000.000 đồng cho anh Đinh Công L để khắc phục hậu quả vụ án theo quyết định của bản án sơ thẩm. Tại phiên tòa, người bào chữa cho bị cáo xuất trình tài liệu chứng cứ mới thể hiện bị cáo có bố đẻ là ông Lê Hùng Đ là Quân nhân đã tham gia bảo vệ tổ quốc, có ông ngoại là Trần Ngọc H đã tham gia kháng chiến, được Nhà nước tặng thưởng Huân, Huy chương. Vì vậy, có thể xem xét giảm nhẹ thêm cho bị cáo một phần trách nhiệm hình sự.

Từ những phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo về việc xin được giảm nhẹ hình phạt.

Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị theo quy định tại Điều 343 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2.3] Về các nội dung khác:

Về án phí:Kháng cáo của bị cáo được chấp nhận nên bị cáo không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Áp dụng: điểm b khoản 1 Điều 355; Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

- Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lê Hồng Qvề việc xin giảm nhẹ hình phạt.

- Sửa Bản án số 18/2022/HSST ngày28/02/2022 của Tòa án nhân dânquận Tây Hồ,TP. Hà Nội về phần hình phạtđối với bị cáoLê Hồng Q, cụ thể như sau:

- Áp dụng:khoản 3 Điều 175; điểm a khoản 3 Điều 174; các điểm b, s khoản 1và khoản 2 Điều 51; Điều 38, (Điều 54 đối với tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản)của Bộ luật Hình sự 2015;

- Xử phạt bị cáo: Lê Hồng Q04 năm 06 tháng tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” và 07 nămtù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo Lê Hồng Q phải chấp hành hình phạt tù chung của cả hai tội là 11 (mười một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 25/5/2021.

2. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

3. Về án phí: Bị cáo không phải nộpán phí hình sự phúc thẩm.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

547
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lạm dụng tín nhiệm và lừa đảo chiếm đoạt tài sản số XXX/2022/HS-PT

Số hiệu:XXX/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về