Bản án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản số 78/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ LA GI, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 78/2023/HS-ST NGÀY 11/08/2023 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 11 tháng 8 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã La Gi, tỉnh Bình Thuận xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 63/2023/TLST-HS ngày 29 tháng 6 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 75/2023/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 7 năm 2023 đối với bị cáo:

Họ và tên: TẠ HOÀNG L2, sinh năm: 1994 tại Bình Thuận; Nơi cư trú: Thôn H, xã T, thị xã L, tỉnh Bình Thuận; Nghề nghiệp: Lao động biển; Trình độ học vấn: 6/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch; Việt Nam; Con ông Tạ Hoàng L (Đã chết) và bà Trần Thị Hồng L1, sình năm: 1974; Vợ Trần Thị Hà Q, sinh năm 1998 và 01 con chung; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 14/9/2015, bị Tòa án nhân dân thị xã La Gi, tỉnh Bình Thuận xử phạt 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” và 15 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản” theo Bản án số 60/2015 HS-ST; Ngày 02/4/2015 bị Tòa án nhân dân huyện Hàm Thuận Nam, tỉnh Bình Thuận xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 18/2015 HS-ST. Tổng hợp hình phạt của 02 bản án là 42 tháng tù theo Bản án số 145/2015 HS-PT ngày 20/11/2015 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Thuận; Ngày 15/10/2020, Công an thị xã L ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Trộm cắp tài sản”; Ngày 25/5/2023, bị Tòa án nhân dân thị xã La Gi, tỉnh Bình Thuận xử phạt 30 tháng tù giam về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 51/2023/HS-ST; Bị cáo đang bị tạm giam trong vụ án khác, hiện đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ của Công an thị xã L; Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

* Bị hại: Ông Ngô Quang Tuấn Q1, sinh năm: 1994: (Vắng mặt) Nơi cư trú: Thôn H, xã T, thị xã L, tỉnh Bình Thuận.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông Lê Vãn T, sinh năm: 1973; (Vắng mặt) Nơi cư trú: Thôn T, xã T, thị xã L, tỉnh Bình Thuận.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toài, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào ngày 19/9/2020, Ngô Quang Tuấn Q1, sinh năm: 1994, trú tại thôn H, xã T, thị xã L, tỉnh Bình Thuận điều khiển xe môtô hiệu Exciter, biển số 86B6-236.98 đến nhà Phạm Duy K , sinh năm: 1999 ở thôn B, xã T, thị xã L, tỉnh Bình Thuận chơi. Lúc này, Tạ Hoàng L2, sinh năm: 1994, trú tại thôn H, xã T, thị xã L, tỉnh Bình Thuận cùng đến nhà K chơi. Thấy Q1 đang dựng xe môtô biển số 86B6-236.98 ở nhà K nên L2 mượn xe của Q1 đi công việc, hẹn lát sau sẽ trả lại. Q1 đồng ý và giao chìa khóa xe cho L2, nhưng sau đó L2 không trả lại xe cho Q1 như đã hẹn. Đến ngày 21/9/2020, do không có tiền nên L2 nảy sinh ý định đem chiếc xe trên đi cầm cố để lấy tiền tiêu xài cá nhân.

Xuất phát từ ý định trên, L2 nhờ Trần Anh K1 (sinh năm: 1993, trú tại thôn B, xã T, thị xã L, tỉnh Bình Thuận) có biết ai cầm xe không, nhờ cầm dùm chiếc xe của L2. Nghe L2 nói vậy, K1 liên hệ cho Lê Thanh C (sinh năm: 1996, trú tại thôn T, xã T, thị xã L, tỉnh Bình Thuận) nói Tạ Hoàng L2 muốn cầm xe Exciter, giấy tờ xe do mẹ L2 cất giữ, chỉ có sổ khẩu để làm tin thì C đồng ý cầm xe với giá 7.000.000 đồng. Khoảng 21 giờ ngày 21/9/2020, K1 dẫn L2 đến nhà C, lúc này C không có ở nhà, Cao gọi cho ông Lê Văn T (ba ruột của Cao) cầm dùm chiếc xe trên, ông T viết giấy cầm xe cho L2 với giá 7.000.000 đồng và thời hạn cầm xe là 01 tháng, L2 đưa cho ông T 01 sổ hộ khẩu số 110076466 đứng tên chù hộ là Huỳnh Thị H. sinh năm: 1988. HKTT: Khu phố A, thị trấn T, huyện H. tỉnh Bỉnh Thuận (ông T không kiểm tra sổ hộ khẩu trên), ông T đưa cho L2 số tiền 6.000.000 triệu đồng, còn 1.000.000 đồng ông T nói L2 gặp Cao lấy, L2 không nói gì và cùng K1 bắt taxi về.

Do không thấy L2 trả lại xe, ngày 30/9/2020, Ngô Quang Tuấn Q1 đến công an xã T trình báo sự việc trên. Sau khi xác minh đơn trinh bảo của Q1, công an xã T chuyển toàn bộ hồ sơ tin báo cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã L xử lý theo thẩm quyền.

Sau khi tiến hành xác minh, thông báo truy tìm tang vật đà xác định: chiếc xe mô tô gắn biển số 86K1-5600 do Lê Thanh C điều khiển bị Công an xã T tạm giữ hành chính có đặc điểm, số máy, số khung trùng khớp với xe mô tô Exciter biển số 86B6-326.98 của Ngô Quang Tuấn Q1 (theo biên bản kiểm tra phương tiện lặp lúc 15h50’ ngày 23/12/2020) nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã L ra Quyết định tạm giữ chiếc xe trên theo Quyết định số 01 ngày 29/12/2020.

Ngày 11/01/2021, tại bản Kết luận định giá tài sản số 02/KL-ĐGTS của Hội đồng ĐGTS trong TTHS - UBND thị xã L kết luận: 01 (một) xe mô tô hiệu Yamaha loại Exciter, màu đen, dung tích 149, số máy G3D4E604940, số khung 0610HY579808, BKS 86B6-326.98. đăng ký lần đầu ngày 28/12/2017, đã qua sử dụng 33 tháng, còn hoạt động; có giá trị là: 47.000.000 đồng/120T x 87T = 34.220.000 đồng Về vật chứng thu giữ gồm:

+ 01 (một) xe mô tô hiệu Yamaha loại Exciter, màu đen, BKS 86B6-326.98 đã trả lại cho bị hại Ngô Quang T1 Quốc theo Quyết định xử lý vật chứng số 24A ngày 02/4/2021, bị hại Q1 không yêu cầu bồi thường gì thêm.

+ 01 (một) biển số 86K1-5600 trả lại cho chủ sở hữu là ông Đỗ M (sinh năm: 1976, trú tại Khu phố D, phường P. thị xã L, tỉnh Bình Thuận); 01 sổ hộ khẩu số 110076466 trả lại cho bà Huỳnh Thị H (sinh năm: 1988, trú tại khu phố A, thị trấn T, huyện H, tỉnh Bình Thuận) theo Quyết định xử lý vật chứng số 35/QĐ-CQĐT ngày 20/6/2023.

Tại bản cáo trạng số 70/CT-VKSLG-HS ngày 29 tháng 6 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân thị xã L đã truy tố bị cáo Tạ Hoàng L2 về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 175 Bộ luật hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi của bị cáo Tạ Hoàng L2 đã đủ yếu tố cấu thành tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Tại phiên toà hôm nay đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã La Gi giữ quyền công tố, tranh luận và phát biểu quan điểm xử lý vụ án như sau:

Đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố: Bị cáo Tạ Hoàng L2 phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.

Áp dụng: Điểm b khoản 1 Điều 175; Điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự;

Xử phạt: Bị cáo Tạ Hoàng L2 từ 24 tháng tù đến 30 tháng tù.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu bồi thường gì về dân sự. Đối với số tiền 6.000.000 đồng mà ông Lê Văn T đưa cho Tạ Hoàng L2 khi cầm cố xe, ông T không yêu cầu L2 trả lại, không khiếu nại gì về sau đề nghị không xét Đối với Trần Anh K1, Lê Thanh C, Lê Văn T không biết xe mô tô hiệu Exciter, biển số 86B6-326.98 Lâm đem cầm cố là do L2 phạm tội mà có nên đề nghị không xem xét.

Tại phiên tòa bị cáo L2 xác định cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố là không sai và không tranh luận gì và đề nghị hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong h sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Cơ quan điều tra Công an thị xã L và Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã La Gi và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, theo hồ sơ đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự và thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

Quá trình điều tra bị cáo, bị hại, những người tham gia tố tụng khác và tại phiên tòa bị cáo không thắc mắc, khiếu nại về những hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

Tại phiên tòa vắng mặt bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án. Xét thấy bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt nhưng đã có đầy đủ lời khai trong hồ sơ vụ án, không gây trở ngại cho việc xét xử. Vì vậy Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt theo quy định tại Điều 292 của Bộ luật tố tụng hình sự.

[2] Về thẩm quyền giải quyết: Bị cáo bị truy tố về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 175 của Bộ luật Hình sự, có mức hình phạt cao nhất đến 3 năm tù, thuộc loại tội phạm ít nghiêm trọng quy định tại điểm a khoản 01 Điều 09 của Bộ luật Hình sự. Tội phạm được thực hiện tại địa bàn thị xã L, tỉnh Bình Thuận. Vì vậy, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã La Gi, tỉnh Bình Thuận theo quy định tại khoản 01 Điều 268 và khoản 01 Điều 269 của Bộ luật tố tụng hình sự.

[3] Về căn cứ buộc tội đối với bị cáo: Tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung cáo trạng đã nêu. Lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án và qua tranh tụng tại phiên tòa có đủ cơ sở kết luận: Ngày 19/9/2020, tại nhà Phạm Duy K thuộc thôn B, xã T, thị xã L, tỉnh Bình Thuận, Tạ Hoàng L2 mượn xe mô tô hiệu Exciter, màu đen, biển số 86B6-326.98 trị giá 34.220.000 đồng của Ngô Quang Tuấn Q1 để đi công việc, hẹn một lát sau trả. Sau đó, vào ngày 21/9/2020 L2 đã chiếm đoạt xe mô tô trên bằng cách cầm cố cho ông Lê Văn T với giá 6.000.000 đồng lấy tiền tiêu xài cá nhân. Hành vi nêu trên của bị cáo đã xâm phạm quyền sở hữu về tài sản hợp pháp của người khác, bị cáo có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự và thực hiện hành vi với lỗi cố ý nên hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 175 Bộ luật Hình sự. Như vậy cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã La Gi, tỉnh Bỉnh Thuận đã truy tố đối với bị cáo L2 là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[4] Về tính chất, mức độ nguy hiểm về hành vi phạm tội của bị cáo: Bị cáo là người đã trưởng thành, đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhân thân bị cáo đã từng bị xét xử về các loại tội về xâm phạm sở hữu, bị cáo ý thức được quyền sở hữu về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, mọi hành vi của bất kỳ người nào xâm phạm đến đều bị pháp luật xử phạt nghiêm minh thế nhưng vì muốn nhanh chóng có tiền tiêu xài mà không phải bằng con đường lao động chân chính nên bị cáo đã lợi dụng sự tin tưởng của chủ sở hữu trong việc giao tài sản của mình cho bị cáo quản lý, sau đó bị cáo đã chiếm đoạt tài sản của chủ sở hữu đem đi cầm cố. Điều đó chứng tỏ, bị cáo xem thường pháp luật, xem thường quyền sở hữu tài sản hợp pháp của người khác mà dẫn đến phạm tội. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây ảnh hưởng xấu tới tình hình an ninh, trật tự tại địa phương.

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự nên cần xem xét khi lượng hình đối với bị cáo.

Trên cơ sở cân nhắc tính chất, mức độ phạm tội, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân và mức hình phạt do đại diện Viện kiểm sát đề nghị đối với bị cáo, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên cần phải xử lý nghiêm, cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để trừng trị, giáo dục bị cáo biết ý thức tuân thủ pháp luật, ngăn ngừa bị cáo phạm tội mới, đồng thời giáo dục những người khác biết tôn trọng pháp luật, tích cực tham gia phòng, chống tội phạm.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu bồi thường gì về dân sự. Đối với số tiền 6.000.000 đồng mà ông Lê Văn T đưa cho Tạ Hoàng L2 khi cầm cố xe, ông T không yêu cầu L2 trả lại, không khiếu nại gì về sau nên Hội đồng xét xử không xét [7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự: Điểm a khoản 01 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[8] Về các vấn đề khác: Đối với Trần Anh K1, Lê Thanh C, Lê Văn T không biết xe mô tô hiệu Exciter, biển số 86B6-326.98 Lâm đem cầm cố là do L2 phạm tội mà có nên không xem xét xử lý nên Hội đồng xét xử không xét.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

[1] Căn cứ: Điểm b khoản 1 Điều 175; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 56 Bộ luật Hình sự;

Tuyên bố: Bị cáo Tạ Hoàng L2 phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.

Xử phạt: Bị cáo Tạ Hoàng L2 02 (Hai) nám 06 (Sáu) tháng tù.

Tổng hợp với hình phạt 02 năm 06 tháng tù theo bản án số 51/2023/HS-ST ngày 25/05/2023 của Tòa án nhân dân thị xã La Gi. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai bản án là 05 (Năm) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tam giữ là ngày 10/02/2023.

[2] Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điểm a khoản 01 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Tạ Hoàng L2 phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[3] Về quyn kháng cáo: Quyền kháng cáo bản án của bị cáo là 15 ngày kể từ ngày tuyên án (11/8/2023). Quyền kháng cáo bản án của bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt là 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

14
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản số 78/2023/HS-ST

Số hiệu:78/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị Xã La Gi - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/08/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về