Bản án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản số 70/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHAN THIẾT, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 70/2022/HS-ST NGÀY 18/05/2022 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 18 tháng 5 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phan Thiết xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 35/2022/TLST - HS ngày 20 tháng 4 năm 2022 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 78/2022/QĐXXST – HS ngày 04/5/2022 đối với bị cáo:

Hà Đức A (Tên gọi khác: C), Sinh năm 1986 tại Bình Thuận; Nơi cư trú: Khu phố 3, phường B, thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 9/12; Nghề nghiệp Làm thuê; Con ông: Hà Công D, sinh năm 1962, nghề nghiệp: Làm thuê; Con bà: Huỳnh Thị E, sinh năm 1963, nghề nghiệp: Buôn bán; Cùng trú tại: Khu phố 3, phường B, thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận; Vợ: Nguyễn Thị F, sinh năm 1988, nghề nghiệp: Không; Trú tại: phường G, thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận; Con: Có 01 người con, sinh năm 2012; Trú tại: Khu phố 3, phường B, thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt theo Quyết định truy nã số 08 ngày 16/4/2019 của Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố Phan Thiết từ ngày 10/02/2022. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ - Công an thành phố Phan Thiết "Có mặt”.

* Người bị hại:

Vũ Hoài H, sinh năm: 1963 (vắng mặt).

Nơi cư trú: khu phố 6, phường I, thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Trương Hữu J, sinh năm: 1985 (vắng mặt).

Nơi cư trú: khu phố 4, phường K, thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 19 giờ ngày 17/9/2018, Hà Đức A đến quán cà phê L thuộc thôn M, xã N, thành phố Phan Thiết thì gặp ông Vũ Hoài H (là chủ quán L, sinh năm 1963, trú tại khu phố 6, phường I, thành phố Phan Thiết). A mượn chiếc xe mô tô hiệu Nouvo 5, biển số 86C1-O.78 của ông H để đi mua card điện thoại. Do A từng làm nhân viên tại quán nên ông H đồng ý cho mượn xe. Sau đó, A điều khiển xe mô tô trên đến tiệm game bắn cá P ở đường Q, thành phố Phan Thiết để chơi game. Do chơi thua hết tiền nên A nảy sinh ý định cầm thế xe mô tô biển số 86C1-O.78 để lấy tiền tiếp tục chơi game. A nhờ R (không rõ nhân thân) dẫn đi cầm thế xe thì R dẫn A qua gặp Trương Hữu J (sinh năm 1985, trú tại khu phố 4, phường K, thành phố Phan Thiết). A nói với J xe mô tô biển số 86C1-O.78 là của A, giấy tờ xe vợ của A giữ ở nhà, nay A cần tiền nên muốn cầm thế thì J đồng ý cầm thế xe với giá 3.000.000 đồng và không làm giấy tờ cầm thế. Sau đó, A tiếp tục chơi game bắn cá thua hết số tiền trên.

Về phía ông H không thấy A đem xe về trả nên đã nhiều lần gọi điện thoại cho A nhưng A không nghe máy. Đến chiều ngày 18/9/2018, ông H đến Công an xã N trình báo sự việc.

Thông qua bạn bè, ông H được biết A đã cầm xe mô tô biển số 86C1-O.78 cho Trương Hữu J ở tiệm bắn cá P trên đường Q nên ông đã đến Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố Phan Thiết trình báo. Ngày 27/9/2018, Cơ quan điều tra đã tiến hành thu giữ chiếc xe mô tô biển số 86C1-O.78.

Sau khi thực hiện hành vi phạm tội, A bỏ trốn khỏi địa phương. Sau đó, Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố Phan Thiết đã ra Quyết định khởi tố vụ án, Quyết định khởi tố bị can và Quyết định truy nã đối với A. Đến ngày 10/02/2022, A bị Công an thị trấn S, huyện T, tỉnh Bình Dương bắt theo Quyết định truy nã số 08 ngày 16/4/2019 của Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố Phan Thiết. Tại Cơ quan Công an, A thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nêu trên (bút lục số 99-106).

Tại kết luận định giá tài sản số 180/KL - HĐĐG ngày 05/10/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Phan Thiết định giá: 01 chiếc xe gắn máy hiệu Yamaha Nouvo, biển số: 86C1-O.78, số máy: 1DB1-003469, số khung: DB10CY003461 trị giá 20.000.000 đồng.

Vật chứng của vụ án:

01 chiếc xe gắn máy hiệu Yamaha Nouvo, biển số 86C1-O.78, số máy:

1DB1-003469, số khung: DB10CY003461 (do Trương Hữu J tự nguyện giao nộp).

Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố Phan Thiết đã ra Quyết định xử lý vật chứng, trả lại chiếc xe trên cho bị hại. Ông H đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường về dân sự.

Trương Hữu J yêu cầu A trả lại số tiền 3.000.000 đồng đã cầm thế xe mô tô. A đã tác động gia đình trả lại 3.000.000 đồng cho J. J đã nhận số tiền trên và không yêu cầu gì về dân sự.

Tại bản cáo trạng số 34/CT - VKSPT - HS ngày 18 tháng 4 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Thiết đã truy tố bị cáo Hà Đức A về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 01 Điều 175 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay, Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Thiết giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 01 Điều 175; điểm i, s khoản 01 khoản 02 Điều 51 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo A mức án từ 06 tháng đến 09 tháng tù.

Bị cáo không trình bày lời bào chữa cũng như không có ý kiến về lời luận tội của Viện kiểm sát đồng thời thừa nhận tòan bộ hành vi phạm tội và đồng ý với quan điểm truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Thiết.

Bị cáo rất hối hận về hành vi phạm tội mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo được hưởng mức án thấp để sớm trở về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1].Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận, Điều tra viên,Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Thiết, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều đúng theo quy định pháp luật.

[2].Về đánh giá chứng cứ xác định hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo khai nhận hành vi phạm tội. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan và các chứng cứ khác có trong hồ sơ. Như vậy, có đủ cơ sở kết luận:

Vào khoảng 19 giờ ngày 17/9/2018, tại thôn M, xã N, thành phố Phan Thiết, Hà Đức A mượn chiếc xe gắn máy biển số 86C1-O.78 trị giá 20.000.000 đồng của ông Vũ Hoài H để đi mua card điện thoại. Sau đó, bị cáo A điều khiển xe mô tô trên đến tiệm game bắn cá P ở đường Q, thành phố Phan Thiết để chơi game. Do chơi game thua nên bị cáo A đã nảy sinh ý định chiếm đoạt chiếc xe mô tô biển số 86C1- O.78 để cầm thế cho ông Trương Hữu J lấy số tiền 3.000.000 đồng tiêu xài cá nhân, rồi sau đó bỏ trốn.

Hành vi của bị cáo Hà Đức A đã xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của người khác, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự của địa phương, đủ yếu tố cấu thành tội “Lạm dụng t n nhiệm chiếm đoạt tài sản” tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 175 Bộ luật hình sự. Do đó, bản cáo trạng số 34/CT - VKSPT - HS ngày 18/4/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Thiết truy tố bị cáo về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 01 Điều 175 Bộ luật hình sự là có căn cứ và đúng pháp luật.

Xét t nh chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo cho thấy: Bị cáo là một thanh niên khỏe mạnh, bị cáo ý thức được tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ thế nhưng với bản chất tham lam tư lợi cao, muốn nhanh chóng có thu nhập mà không phải lao động nặng nhọc nên sau khi được người bị hại cho mượn xe đi mua card điện thoại bị cáo lại nảy sinh ý định chiếm đoạt chiếc xe của bị hại đem thế chấp lấy tiền tiêu xài để thỏa mãn nhu cầu vật chất cá nhân, bất chấp pháp luật. Hành vi của bị cáo thể hiện t nh nguy hiểm cho xã hội nên cần phải xử lý bằng biện pháp hình sự nhằm để răn đe giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.

[3]Về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

- Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong giai đoạn điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, đã tác động gia đình trả lại tiền cho ông J nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm i, s khoản 01 khoản 02 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[4]Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Thiết giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo là có căn cứ và với mức án mà Kiểm sát viên đề nghị là tương xứng với t nh chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo.

Trên cơ sở cân nhắc các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, có xem xét nhân thân của bị cáo, xét thấy hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội nên cần tiếp tục cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian là cần thiết.

[5]Về bồi thường dân sự: ông Vũ Hoài H đã nhận lại tài sản không yêu cầu bồi thường gì nên Hội đồng xét xử không xét.

Ông Trương Hữu J đã nhận lại số tiền 3.000.000 đồng do gia đình bị cáo trả nên không có yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử không xét.

Đối với đối tượng tên R, do không rõ nhân thân nên Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố Phan Thiết không đủ cơ sở xác minh làm rõ.

Đối với ông Trương Hữu J, khi nhận cầm thế chiếc xe mô tô biển số 86C1- O.78, do ông J không biết đây là tài sản do bị cáo phạm tội mà có nên không có căn cứ để xử lý ông J về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” là đúng theo quy định pháp luật.

- Về án ph : Bị cáo phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

* Tuyên bố: Bị cáo Hà Đức A phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.

* Áp dụng: Điểm a khoản 01 Điều 175; điểm i, s khoản 01, khoản 02 Điều 51 Bộ luật hình sự.

* Xử phạt: Hà Đức A 06 (Sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 10/02/2022.

* Về án phí: áp dụng Điều 135 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a, c khoản 01 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án ph , lệ ph Tòa án và danh mục án ph , lệ ph Tòa án ban hành kèm theo Nghị quyết.

Hà Đức A phải nôp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn) án phí hình sự sơ thẩm.

Quyền kháng cáo bản án của bị cáo là 15 ngày kể từ ngày tuyên án (18/5/2022). Quyền kháng cáo bản án của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là 15 ngày kể từ ngày nhận bản án hoặc niêm yết bản án tại ch nh quyền địa phương nơi cư trú.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

130
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản số 70/2022/HS-ST

Số hiệu:70/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phan Thiết - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về