Bản án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản số 59/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LƯƠNG TÀI, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 59/2023/HS-ST NGÀY 30/11/2023 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 30 tháng 11 năm 2023, tại trường THPT Lương Tài số 2, Tòa án nhân dân huyện Lương Tài mở phiên tòa lưu động xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 59/2023/TLST – HS ngày 3 tháng 11 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 58/2023/QĐXXST – HS ngày 14 tháng 11 năm 2023 đối với bị cáo:

ĐOÀN HỮU T, sinh năm: 2003 tại: Thôn ĐH, thị trấn T, huyện Lương Tài, tỉnh Bắc Ninh; Nơi cư trú: Thôn ĐH, thị trấn T, huyện Lương Tài, tỉnh Bắc Ninh; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa (học vấn): Lớp 10/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Đoàn Hữu Đ và bà Lê Thị H; Vợ, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Không; Bị tạm giam từ ngày 7/9/2023 đến nay.

“Có mặt”

- Bị hại: Anh Đặng Văn T, sinh ngày 21/12/2005.

Trú tại: Thôn ĐX, xã TC, huyện Lương Tài, tỉnh Bắc Ninh “Vắng mặt” - Người đại diện hợp pháp của bị hại: Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1984 Trú tại: Thôn ĐX, xã TC, huyện Lương Tài, tỉnh Bắc Ninh Là mẹ đẻ của bị hại Đặng Văn T “Vắng mặt” - Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Phạm Văn T, sinh năm 1994 Trú tại: Thôn TL, xã TC, huyện Lương Tài, tỉnh Bắc Ninh “Vắng mặt”

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Giữa Đoàn Hữu T và Nguyễn Quốc A có quan hệ bạn bè, quen biết nhau. Tối ngày 25/8/2023, Quốc A gọi điện cho T hỏi vay 3 triệu đồng với mục đích để Quốc A tổ chức sinh nhật vào ngày hôm sau. T nói với Quốc A là mình không có tiền và hứa sẽ đi vay hộ Quốc A. T và Quốc A hẹn gặp nhau tại quán nước gần bờ hồ thuộc thị trấn Thứa, huyện Lương Tài, tỉnh Bắc Ninh để cùng nhau đi vay tiền. Do không có phương tiện đi lại nên Quốc A đã gọi điện nhờ Đặng Văn T là anh họ Quốc A để nhờ T chở mình lên gặp T, T đồng ý. Do chờ lâu nên Quốc A đã đi nhờ xe của một người bạn lên gặp T trước. T và Quốc A gặp nhau tại bờ hồ thuộc thị trấn Thứa, do cả hai không có phương tiện đi lại nên đã chờ T lên để nhờ T chở đi vay tiền. Một lúc sau T điều khiển xe moto nhãn hiệu Honda Wave, màu xanh bạc, BKS 99K1-X đến, Quốc A đã nhờ T chở mình và T đi lấy tiền. Khi cả ba chuẩn bị xuất phát thì Quốc A bị chủ gọi về làm việc, Quốc A nhờ T chở mình về quán làm việc và chở T đi lấy tiền. Sau khi đưa Quốc A về quán thì T và T quay lại quán nước ở bờ hồ Thứa. Tại đây, T hỏi mượn xe của T để T đi lấy tiền một mình, còn T ngồi quán nước đợi T lấy tiền xong về đưa cho T, T đồng ý đưa xe cho T. Sau khi mượn được xe của T, T đã gọi điện cho một người bạn tên là Mít để hỏi vay tiền nhưng người này nói không có tiền cho vay. Lúc này, do cần tiền nên T đã nảy sinh ý định bán chiếc xe của T để lấy tiền chi tiêu cá nhân, T mở cốp xe kiểm tra thấy trong có một ví da màu nâu, bên trong có một giấy dăng ký xe mô tô mang tên Đặng Văn T và 400 nghìn đồng tiền mặt. T điều khiển xe xuống nhà anh Phạm Văn T ở Thôn TL, xã TC, huyện Lương Tài để bán nhưng anh Tr không có nhà nên T đã đi về nhà nghỉ Gia Long thuộc thôn Đạo Sử, thị trấn Thứa, huyện Lương Tài là nơi T đang thuê phòng và gửi lại đó. Về phía Đặng Văn T, do đợi lâu không thấy T quay lại nên đến khoảng 22 giờ 30 phút cùng ngày, T gọi điện cho Quốc A bảo Quốc A gọi T về trả xe, Quốc A gọi điện cho T thì T nói dối là đang về và xin số điện thoại của T để T trả xe. Đến khoảng 23 giờ, T gọi điện cho T hẹn T ra ngã ba thôn Đạo Sử, thị trấn Thứa, huyện Lương Tài để trả xe. Khi đến nơi, T không thấy xe moto của mình đâu nên đã hỏi thì T nói dối là cần tiền gấp nên đã bán xe của T rồi; thấy vậy T đã gọi điện cho Quốc A đến, T nói giờ này chủ quán đã đóng cửa và hứa là sáng sớm hôm sau sẽ đi chuộc xe lại trả cho T. Thấy không còn cách nào khác nên T và Quốc A bàn nhau rủ T vào quán internet ở bờ hồ Thứa chơi game, mục đích để giữ chân không cho T bỏ trốn. Cả ba chơi game đến khoảng 4 giờ ngày 26/8/2023 thì T nói dối T và Quốc A là để T về nhà nghỉ lấy tiền đi chuộc xe, đồng thời đưa cho T 400 nghìn đồng là tiền T để trong cốp xe để T trả tiền chơi game. Khi về đến nhà nghỉ, T đã lấy xe đi ra Hà Nội tìm nơi tiêu thụ nhưng không được. Đến chiều ngày 27/8/2023, T đi xe về thị trấn Thứa, huyện Lương Tài gặp anh Nguyễn Văn Anh ở thôn Đông Hương và nhờ anh Văn Anh cùng đi đến nhà anh Tr để bán xe. Khi anh Tr hỏi về nguồn gốc chiếc xe thì T nói là của chú T nhờ đi bán hộ, đồng thời đưa giấy đăng ký xe cho anh Tr kiểm tra. Anh Tr tin tưởng T nên đã đồng ý mua chiếc xe trên với giá 11 triệu đồng. T viết giấy bán xe và bảo anh Tr chuyển tiển vào tài khoản số 0865485X, mở tại Ngân hàng TMCP Quân Đội (MB Bank), chủ tài khoản là Nguyễn Thị Diễm là chị họ của T, tài khoản này chị Diễm cho T sử dụng. Sau khi có được tiền bán xe, T đã chi tiêu cá nhân hết số tiền trên.

Sau khi không tìm gặp và liên lạc được với T, ngày 28/8/2023 T và gia đình đã làm đơn tố giác Đoàn Hữu T về hành vi chiếm đoạt chiếc xe mô tô BKS: 99K1-X gửi đến Công an thị trấn Thứa và Công an huyện Lương Tài.

Sau khi biết chiếc xe moto là tài sản do T phạm tội mà có, ngày 30/8/2023 anh Phạm Văn T đã tự nguyện giao nộp chiếc xe trên, đăng ký xe mang tên Đặng Văn T và giấy viết tay mua bán xe ngày 27/8/2023 cho Công an huyện Lương Tài.

Tại Kết luận định giá số: 40/KL-HĐĐGTS ngày 05/9/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Lương Tài, kết luận:

“+ Chiếc xe mô tô Nhãn hiệu Honda Wave BKS: 99K1-X có giá trị là 15.000.000đ (Mười lăm triệu đồng chẵn).” Quá trình điều tra, cơ quan điều tra đã tiến hành sao kê tài khoản mở tại Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam (Viettin Bank) và Ngân hàng TMCP Quân đội (MB Bank) xác định: Hồi 17 giờ 38 phút ngày 27/8/2023 tài khoản mang tên Nguyễn Thị Diễm mở tại Ngân hàng TMCP Quân đội có nhận được số tiền 11 triệu đồng từ tài khoản mang tên Phạm Văn T mở tại Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam.

Tại bản cáo trạng số: 58/CT– VKS –LT ngày 3 tháng 11 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lương Tài đã truy tố Đoàn Hữu T về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 1 Điều 175 của Bộ luật hình sự.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa Đoàn Hữu T thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình như cáo trạng đã truy tố và thừa nhận sau khi mượn được xe của T, T hỏi vay tiền của Mít nhưng không được do không có tiền chi tiêu cá nhân nên T mới nảy sinh ý định bán chiếc xe của T.

Bị hại là anh Đặng Văn T và người đại diện hợp pháp của bị hại là bà Nguyễn Thị T vắng mặt tại phiên tòa, tại các lời khai có trong hồ sơ vụ án và tại đơn đề nghị xét xử vắng mặt anh T và bà Thúy trình bày: Giữa T và T không quen biết nhau từ trước, việc T cho T mượn xe là vì tin tưởng mối quan hệ giữa T và Quốc A; T cho T mượn xe là hoàn toàn tự nguyện, sau khi T bán xe thì mới báo cho T biết, T và gia đình không đồng ý để T bán xe và T không được T trả tiền bán xe. Hiện tại T đã được nhận lại chiếc xe Honda Wave BKS: 99K1-X và đăng ký xe. Đối với chiếc ví da T để trong cốp xe do đã cũ, không còn giá trị sử dụng nên T không yêu cầu T phải hoàn trả giá trị chiếc ví. Ngoài ra, T và gia đình không yêu cầu T phải bồi thường gì thêm. Về trách nhiệm hình sự: T đề nghị HĐXX xét xử bị cáo theo quy định của pháp luật.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Phạm Văn T xin vắng mặt tại phiên tòa. Anh Tr trình bày: Bản thân anh có chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh, với ngành nghề kinh doanh là mua bán ô tô, xe máy. Khi bán chiếc xe mô tô nói trên, T nói là xe của chú T nhờ T bán hộ, do T có đầy đủ đăng ký xe nên anh tin tưởng mua xe với giá 11 triệu đồng, hai bên có viết giấy mua bán, anh đã chuyển đủ tiền cho T. Sau khi biết chiếc xe là do phạm tội mà có thì anh đã giao xe và giấy tờ xe, giấy tờ mua bán cho cơ quan điều tra. Nay anh không yêu cầu bị cáo phải trả lại số tiền 11 triệu đồng mà anh đã bỏ ra để mua chiếc xe.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lương Tài giữ quyền công tố tại phiên tòa sau khi phân tích hành vi phạm tội của bị cáo, căn cứ vào nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự mà bị cáo được hưởng vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố: Đoàn Hữu T phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản".

- Căn cứ: Điểm a khoản 1 Điều 175; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự. Xử phạt Đoàn Hữu T từ 8 đến 11 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 7/9/2023. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về trách nhiệm dân sự: Không đặt ra giải quyết.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật.

Bị cáo nhất trí với bản luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa, không tranh luận gì thêm.

Kiểm sát viên không tranh luận gì thêm.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự; trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo, bị hại và những người tham gia tố tụng khác không người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình, lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo, bị hại trong quá trình điều tra, truy tố, phù hợp vật chứng đã thu giữ, cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã có đủ cơ sở xác định: Do tin tưởng nên tối ngày 25/8/2023, Đặng Văn T đã cho Đoàn Hữu T mượn chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave BKS 99K1-X có giá trị 15 triệu đồng để T đi vay tiền cho bạn của T là Quốc A. Sau khi mượn được xe, T gọi điện hỏi vay tiền của Mít bạn T nhưng không được nên T đã nảy sinh ý định bán chiếc xe của T lấy tiền chi tiêu cá nhân. Ngày 27/8/2023, T đã bán chiếc xe nói trên cho Phạm Văn T được 11 triệu đồng và chi tiêu cá nhân hết, không có khả năng trả lại xe cho T. Do đó đã đủ cơ sở xác định Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lương Tài truy tố bị cáo Đoàn Hữu T về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 1 Điều 175 của Bộ luật hình sự là có căn cứ, cần được chấp nhận.

[3] Bị cáo T là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, bị cáo nhận thức được việc mượn xe mô tô của anh T rồi đem đi bán là vi phạm pháp luật hình sự, nhưng vì bản tính tham lam, ham chơi, lười lao động và xem thường pháp luật nên đã thúc đẩy bị cáo phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”, đây cũng là nguyên nhân và là động cơ phạm tội của bị cáo. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, làm suy giảm lòng tin giữa người với người, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Vì vậy hành vi phạm tội của bị cáo cần phải xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật.

[4] Xem xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy:

- Về nhân thân: Bị cáo T là người có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, bị cáo phạm tội lần này là lần đầu.

- Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

- Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự;

- Về quyết định hình phạt: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, bị cáo được hưởng hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 51 của BLHS. Nên khi lượng hình HĐXX cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo cũng đủ sức giáo dục, răn đe đối với bị cáo, đồng thời cũng thể hiện được tính nghiêm minh của pháp luật và vẫn có tác dụng giáo dục riêng và răn đe, phòng ngừa chung.

[5] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo không có công việc và thu nhập nên không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo là phù hợp.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản, không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì thêm. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không yêu cầu bị cáo phải hoàn trả số tiền đã bỏ ra để mua chiếc xe do bị cáo phạm tội mà có nên cần ghi nhận sự tự nguyện này của anh Tr. Bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không ai có yêu cầu gì về phần trách nhiệm dân sự nên không đặt ra xem xét, giải quyết.

[6]Về vật chứng của vụ án: Chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave BKS 99K1-X và 01 đăng ký xe mang tên Đặng Văn T, cơ quan điều tra đã trả lại chiếc xe trên cho Đặng Văn T là phù hợp.

[7] – Đối với 01 chiếc ví da màu nâu của T để trong cốp xe máy, T đã làm mất, T xác định chiếc ví da đã cũ, không còn giá trị sử dụng, không đề nghị T phải hoàn trả giá trị chiếc ví nên T không phải hoàn trả giá trị chiếc ví trên cho T.

- Đối với Phạm Văn T và Nguyễn Văn Anh: Trong quá trình điều tra xác định Tr và Văn Anh không biết chiếc xe mà T bán là do phạm tội mà có, Văn Anh không được T chia tiền bán xe, anh Tr có giấy phép đăng ký kinh doanh theo quy định nên không xem xét xử lý đối với Tr và Văn Anh là phù hợp.

- Đối với Nguyễn Quốc A là người hỏi vay tiền T và nhờ T chở T đi vay tiền giúp, việc T mượn xe của T Quốc A không biết, việc T tự ý bán xe của T Quốc A không biết, không liên quan, không được hưởng lợi gì nên Quốc A không liên quan gì trong vụ án này.

- Đối với chị Nguyễn Thị Diễm là chủ sử dụng của số tài khoản mà T đã sử dụng để nhận tiền bán xe do Tr chuyển. Trong quá trình điều tra có căn cứ xác định tài khoản trên chị Diễm đã cho T từ lâu, việc T sử dụng tài khoản này để làm gì chị Diễm không biết, chị không được hưởng lợi từ số tiền do T phạm tội mà có. Do vậy chị Diễm không liên quan gì trong vụ án này.

[8] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí. Bị cáo, bị hại và những người tham gia tố tụng khác có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố : Bị cáo Đoàn Hữu T phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản".

- Căn cứ: Điểm a khoản 1 Điều 175; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự. Xử phạt Đoàn Hữu T 11 (mười một) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 07/9/2023.

Căn cứ: Điều 329 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tạm giam bị cáo 45 ngày, kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

- Về trách nhiệm dân sự: Ghi nhận sự tự nguyện của anh Phạm Văn T không yêu cầu Đoàn Hữu T phải hoàn trả số tiền 11.000.000 đồng.

- Về án phí: Căn cứ: Khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2014 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo Đoàn Hữu T phải chịu 200.000 đồng án phí HSST.

Về quyền kháng cáo: Căn cứ: Điều 331; Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự: Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

18
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản số 59/2023/HS-ST

Số hiệu:59/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lương Tài - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/11/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về