Bản án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản số 53/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH O, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 53/2023/HS-ST NGÀY 10/07/2023 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Trong ngày 10 tháng 7 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thanh O, thành phố H xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 32/2023/HSST ngày 16/5/2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 48/2023/QĐXXST-HS ngày 14/6/2023, đối với bị cáo:

Họ và tên: Trần Văn H Tên gọi khác: Không Giới tính: Nam Sinh năm: 1992 Nơi cư trú: Thôn Đình N, xã Hồng Ph, huyện An D, thành phố Hải Ph Quốc tịch: Việt Nam Dân tộc: Kinh Tôn giáo: Không Nghề nghiệp: Lao động tự do Trình độ văn hoá: 09/12 Chức vụ trước khi phạm tội (Đảng, chính quyền, đoàn thể): Không Họ và tên bố: Trần Văn H Sinh năm: 1966 Họ và tên mẹ: Nguyễn Thị C Sinh năm: 1969 Gia đình bị cáo có 2 anh em, bị cáo là con thứ 1 Vợ, con: Chưa Tiền án, tiền sự: Không Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 10/4/2023 đến nay. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 2 - Công an TP H - Có mặt tại phiên tòa.

- Người bị hại: Anh Nguyễn Trọng K, sinh năm 1996; Trú tại: Thôn Duyên Giang, xã Phú Lương, huyện Đ, tỉnh T. Vắng mặt.

- Người làm chứng: Anh Nguyễn Ngọc T, sinh năm 1996, trú tại: Thôn Văn Khê, xã Tam Hưng, huyện Thanh O, T.P H; Anh Hoàng Trung Đ, sinh năm 1995, trú tại: Thôn Dưỡng Thọ, xã Tiên Sơn, huyện D, tỉnh H; Anh Đoàn Văn Th, sinh năm 1993, trú tại: Thôn Hoàng Lâu, xã Hồng Phong, huyện A, thành phố H. Đều vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Nguyễn Trọng K sinh năm 1996, hộ khẩu thường trú thôn Duyên Giang, xã Phú Lương, huyện Đ, tỉnh T và Trần Văn H sinh năm 1992, hộ khẩu thường trú thôn Đình Ngọ, xã Hồng Phong, huyện A, thành phố H là nhân viên làm thuê, cùng ở tại gara sửa chữa ô tô Đ địa chỉ thôn Nhân Hiền, xã Hiền Giang, huyện T, thành phố H của anh Nguyễn Ngọc T sinh năm 1983, trú tại thôn Văn Khê, xã Tam Hưng, huyện Thanh O, thành phố H. Khoảng 19 giờ ngày 14/5/2022, K cùng H về nhà anh T ở thôn Văn Khê, xã Tam Hưng để ăn cơm. Tại nhà T, H có hỏi mượn K chiếc xe máy nhãn hiệu Yamaha Exciter, biển kiểm soát: 17B3-xxxxx để về quê ăn giỗ, K đồng ý đưa chìa khóa và xe máy cho H mượn. Sau khi mượn được xe máy của K thì H nảy sinh ý định chiếm đoạt chiếc xe máy này.

Đến ngày 19/5/2022, H có nhờ Đoàn Văn Th sinh năm 1993, trú tại thôn Hoàng Lâu, xã Hồng Phong, huyện A, thành phố H chở H đến gara sửa chữa ô tô Đ để H lấy quần áo và xin nghỉ làm. Th đồng ý, điều khiển xe máy Gravita màu đỏ của Th chở H đến gara sửa chữa ô tô Đ. Khi đến nơi cửa gara sửa chữa ô tô đang khóa do trước đó H có gọi điện thoại dặn K để lại chìa khóa cửa gara sửa chữa ô tô lại cho H nhưng khi về nhà T ăn cơm thì K quên không để lại. Sau đó Th đi mua chai nước và bao thuốc lá, lúc này H trèo vào trong gara sửa chữa ô tô để lấy quần áo của mình. Khi đi qua phòng của K thấy đang mở, H đi vào phát hiện trong hộp gỗ đựng đồ của K có số tiền 10.600.000 đồng và giấy đăng ký xe máy Yamaha Exciter, biển kiểm soát: 17B3 - xxxxx, H đã lấy tất cả số tiền này và giấy đăng ký xe máy. H mang theo đồ đạc cá nhân ra khỏi gara sửa chữa ô tô, đi đến chỗ Th đang ngồi trông xe máy cách cổng gara sửa chữa ô tô khoảng 50m. Th không biết gì về việc H lấy trộm tiền và giấy đăng ký xe máy của K, sau đó Th chở H đi về nhà.

Ngày 20/5/2022, H đăng bán chiếc xe máy của K tại nhóm mua bán xe trên ứng dụng mạng xã hội Facebook. Cùng ngày, có một người tên D nhắn tin hỏi mua xe máy nhưng H không biết rõ họ, tuổi và địa chỉ cụ thể của người này. H đồng ý bán cho D chiếc xe máy của K với giá 17.000.000 đồng. Sau đó D có nhờ một người đàn ông mà H không quen biết đến gặp H để trả tiền và lấy xe. Sau khi bán xe máy của K, H bỏ đi vào tỉnh Bình Dương, số tiền trộm cắp và bán xe của K, H đã tiêu xài cá nhân hết.

Tang vật tài sản thu giữ: 01 đĩa DVD lưu giữ nội dung sự việc Trần Văn H mượn xe máy của Nguyễn Trọng K ngày 14/5/2022.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 96 ngày 27/12/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Thanh O kết luận:

- Chiếc xe máy nhãn hiệu Yamaha đang sử dụng, số loại Exciter, số khung: RLCUG0610GY328263, số máy: G3D4E344769, biển kiểm soát: 17B3 - xxxxx có giá trị là 13.000.000 đồng (Mười ba triệu đồng).

Bản Cáo trạng số 33/CT-VKS ngày 15/5/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh O truy tố bị cáo Trần Văn H về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 175 Bộ luật Hình sự và tội “Trộm cắp tài sản”, theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận hành vi như nội dung vụ án đã nêu ở trên và xin được giảm nhẹ hình phạt.

Người bị hại đã nhận bồi thường và có đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát sau khi phân tích tính chất mức độ hành vi phạm tội, đánh giá nhân thân của bị cáo đã kết luận giữ nguyên quan điểm như cáo trạng truy tố và đề nghị áp dụng: Điểm b khoản 1 Điều 175; khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 55 của Bộ luật Hình sự. Đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt Trần Văn H từ 09 - 12 tháng tù về tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản; từ 9 - 12 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản. Tổng hợp hình phạt chung của 02 tội là từ 18 - 24 tháng tù, được trừ thời hạn bắt tạm giam từ ngày 10/4/2023 đến nay.

Bị cáo Trần Văn H và gia đình tự nguyện bồi thường cho bị hại Nguyễn Trọng K số tiền 40.600.000 đồng. K không có yêu cầu gì thêm về bồi thường dân sự nên không xem xét giải quyết.

Bị cáo là lao động tự do, không có thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Đối với 01 đĩa DVD lưu giữ nội dung sự việc Trần Văn H mượn xe máy của Nguyễn Trọng K ngày 14/5/2022 là chứng cứ cần lưu trong hồ sơ vụ án.

Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung nêu trên. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, cùng các tài liệu khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử thấy có đủ căn cứ kết luận:

[1.1] Về tố tụng: Quá trình điều tra, truy tố, Cơ quan điều tra, Điều tra viên và Viện kiểm sát, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về hoạt động: “Điều tra”, “Truy tố” đồng thời đã giải thích và tạo điều kiện để bị cáo và người tham gia tố tụng thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ tố tụng của họ.

Đối với sự vắng mặt của bị hại, người làm chứng. Xét thấy sự vắng mặt của những người này không ảnh hưởng đến việc xét xử. Căn cứ Điều 292, 293 Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[1.2] Về nội dung: Hội đồng xét xử thấy có đủ cơ sở để xác định ngày 14/5/2022, tại thôn Văn Khê, xã Tam Hưng, huyện Thanh O, thành phố H, Trần Văn H đã lợi dụng sự tin tưởng, mượn được của Nguyễn Trọng K chiếc xe máy nhãn hiệu Yamaha Exciter, biển kiểm soát: 17B3-xxxxx có giá trị 13.000.000 đồng để về quê ăn giỗ. Sau khi mượn được xe máy thì H nảy sinh ý định chiếm đoạt chiếc xe máy của K. Ngày 20/5/2022 H bán chiếc xe máy này cho một người không quen biết tên là D với giá 17.000.000 đồng, số tiền này H đã tiêu sài cá nhân hết dẫn đến mất khả năng trả lại tài sản cho K.

Ngoài ra ngày 19/5/2022 tại gara sửa chữa ô tô Đ ở thôn Nhân Hiền, xã Hiền Giang, huyện T, thành phố H. Trần Văn H còn trộm cắp của Nguyễn Trọng K số tiền 10.600.000 đồng.

Hành vi nêu trên của bị cáo đã phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” và tội “Trộm cắp tài sản” với tổng giá trị tài sản mà bị cáo chiếm đoạt là 23.600.000 đồng. Bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 175 và khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh O truy tố bị cáo là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2] Đánh giá về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp, xét về nhân thân bị cáo chưa có tiền án, tiền sự. Bị cáo khai báo thành khẩn, thể hiện thái độ ăn năn hối cải, đã tự nguyện bồi thường khắc phục hậu quả, người bị hại có đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo, do vậy bị cáo được hưởng những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại Điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[3] Xét hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự xã hội, cần được xét xử nghiêm minh theo quy định. Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo đã được phân tích ở trên, Hội đồng xét xử thấy có đủ cơ sở để áp dụng hình phạt tù có thời hạn, cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian với mức án thấp hơn đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa cũng đủ giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.

[4] Về dân sự và các tình tiết khác: Bị cáo Trần Văn H và gia đình bồi thường cho Nguyễn Trọng K số tiền 40.600.000 đồng. K không có yêu cầu gì thêm về bồi thường dân sự nên không xem xét giải quyết.

Đối với việc Trần Văn H trộm cắp của Nguyễn Trọng K số tiền 10.600.000 đồng tại gara sửa chữa ô tô Đ thuộc địa phận thôn Nhân Hiền, xã Hiền Giang, huyện T, thành phố H. Ngày 20/3/2023, cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện T có văn bản số 186/CQĐT đề nghị cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Thanh O tiếp tục điều tra giải quyết vụ việc này nên cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Thanh O xem xét, giải quyết cùng với vụ án Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản nêu trên là có căn cứ.

Quá trình điều tra xác định ngày 19/5/2022, Đoàn Văn Th điều khiển xe máy của mình chở Trần Văn H đến gara sửa chữa ô tô Đ để H lấy quần áo và xin nghỉ làm. Th không biết việc H trộm cắp tài sản của Nguyễn Trọng K nên cơ quan điều tra không đề cập xem xét xử lý Th là có căn cứ.

Đối với người tên D đã mua chiếc xe máy Yamaha Exciter biển kiểm soát: 17B3 - xxxxx của Trần Văn H và người đàn ông D nhờ đến gặp H để trả tiền và lấy chiếc xe máy này. Quá trình điều tra H trình bày không biết họ tên, địa chỉ cụ thể của những người này nên không có căn cứ để xác minh nhân thân, lai lịch của người đã mua chiếc xe máy nêu trên. Ngày 30/7/2022, cơ quan điều tra ra quyết định truy tìm đối với chiếc xe máy này nhưng đến nay chưa tìm được.

Về hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

[5] Vật chứng: Đối với 01 đĩa DVD lưu giữ nội dung sự việc Trần Văn H mượn xe máy của Nguyễn Trọng K ngày 14/5/2022 là chứng cứ được lưu kèm theo hồ sơ vụ án.

[6] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

 - Áp dụng Điểm b Khoản 1 Điều 175; Khoản 1 Điều 173; Điểm b, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 55 của Bộ luật Hình sự; các Điều 135, 136, 331, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

- Tuyên bố bị cáo Trần Văn H phạm tội: “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” và “Trộm cắp tài sản”

- Xử phạt bị cáo Trần Văn H 09 tháng tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” và 07 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Tổng hợp hình phạt buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai tội là 16 (mười sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 10/4/2023.

- Về vật chứng: 01 đĩa DVD lưu giữ nội dung sự việc Trần Văn H mượn xe máy của Nguyễn Trọng K ngày 14/5/2022 được lưu kèm theo hồ sơ vụ án.

- Về dân sự: Không.

- Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

 Người bị hại vắng mặt tại phiên tòa, có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

18
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản số 53/2023/HS-ST

Số hiệu:53/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thanh Oai - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/07/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về