Bản án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản số 52/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU

BẢN ÁN 52/2023/HS-PT NGÀY 19/06/2023 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 19 tháng 6 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 75/2023/HSPT ngày 08-5-2023 đối với bị cáo Nguyễn Hồ Ngọc T do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 53/2023/HSST ngày 07-4-2023 của Tòa án nhân dân huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.

- Bị cáo có kháng cáo:

Nguyễn Hồ Ngọc T, sinh năm 2000 tại Bình Thuận; nơi cư trú: ấp A, xã A, huyện L, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu; Nghề nghiệp: lao động tự do; Trình độ văn hóa: 12/12; Giới tính: nữ; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Thiên chúa; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Ngọc T1; Con bà Hồ Thị Kim O;

Tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo tại ngoại (có mặt).

Ngoài ra trong vụ án còn có bị hại nhưng không có kháng cáo và không liên quan đến kháng cáo.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Hồ Ngọc T là nhân viên cửa hàng B cơ sở tại ấp A, xã A, huyện L, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (thuộc Công ty cổ phần T4). Theo hợp đồng lao động, T là nhân viên khối siêu thị (kho, thu ngân, bán hàng), công việc phải làm là theo sự phân công của cấp quản lý trực tiếp và theo bản mô tả công việc.

Anh Phạm Văn T2 là quản lý của cửa hàng B nơi Trân làm việc. T2 là người chịu trách nhiệm quản lý tất cả các khâu tại cửa hàng, chịu trách nhiệm về việc quản lý số tiền bán hàng trong ngày và chuyển tiền về cho công ty. T2 là người phân công nhiệm vụ cho các nhân viên tại cửa hàng. Nhiệm vụ của các nhân viên tại cửa hàng làm theo ca và các nhân viên không làm một việc cố định. Khi phân công nhiệm vụ cho nhân viên làm thu ngân, T2 giao luôn chìa khóa két sắt cho thu ngân quản lý số tiền trong két sắt, giữa T2 và nhân viên tự thỏa thuận việc phân công quản lý tiền thu ngân và tiền trong két sắt. Nếu bị mất tiền bán hàng trong ngày (kể cả tiền trong két sắt và tiền bán hàng có được trong ngày) thì thu ngân sẽ chịu trách nhiệm với T2 và T2 là người chịu trách nhiệm với công ty.

Vào khoảng 12 giờ ngày 04/9/2022, T đến cửa hàng B trên để làm việc. Lúc này, anh T2 phân công T làm nhiệm vụ thu ngân tại cửa hàng và giao chìa khóa két sắt cho T quản lý để lấy tiền thối trả cho khách mua hàng khi cần. Khoảng 18 giờ 30 phút cùng ngày, theo lời khai của T có 01 nam thanh niên tên Đồng Tuấn Đ (chưa rõ nhân thân, lai lịch) gọi điện thoại cho T đòi số tiền 30.000.000đ mà Trân nợ của Đ và nói nếu T không trả sẽ tìm đến nhà. Do không có tiền để trả và sợ Đ tìm đến nhà nên T nảy sinh ý định chiếm đoạt tiền của cửa hàng Bách Hóa X nơi T đang làm để lấy trả nợ. Đến khoảng 20 giờ 45 phút cùng ngày, sau khi bán hàng xong Trân mở tủ két sắt trong đó có số tiền khoảng 150.000.000đ là tiền bán hàng của những ngày trước đó. Lúc này, T lấy ra số tiền 30.000.000đ từ số tiền trong két sắt cất giấu vào hộc tủ của quầy thu ngân, tất cả số tiền còn lại T đề lại vào trong két sắt. Đến khoảng 21 giờ 30 phút cùng ngày, khi hết giờ làm việc, T đi đến khu vực quầy thu ngân lấy số tiền 30.000.000đ trên cất giấu vào trong ba lô của mình rồi đi ra về. Sau đó, T liên lạc hẹn Đ đến khu vực cầu C thuộc phường A, thành phố V và đưa số tiền 30.000.000đ trên cho Đ đề trả nợ rồi T đi về nhà.

Ngày 05/9/2022, anh T2 thống kê và kiểm tra số tiền trong két sắt để chuyển về công ty thì phát hiện bị mất số tiền 30.000.000đ nên đã liên hệ với bộ phận an ninh phụ trách cửa hàng để giải quyết. Sau đó, qua trích xuất camera tại cửa hàng xác định người lấy số tiền trên là T.

Ngày 09/9/2022, anh Khương Công T3 (là người đại diện của cửa hàng B) đã đến cơ quan công an để trình báo sự việc.

Về trách nhiệm dân sự: Nguyễn Hồ Ngọc T đã tự nguyện bồi thường lại số tiền 30.000.000đ cho anh Phạm Văn T2 để anh T2 bồi thường cho Công ty cổ phần T4. Anh T2 không có yêu cầu gì thêm.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 53/2023/HSST ngày 07-4-2023 của Tòa án nhân dân huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã quyết định:

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Hồ Ngọc T phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 175; điểm b, i, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự; Xử phạt Nguyễn Hồ Ngọc T 08 (tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày chấp hành án.

Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí, xử lý vật chứng và quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Ngày 10-4-2023, bị cáo Nguyễn Hồ Ngọc T kháng cáo xin giảm hình phạt và được hưởng án treo.

Tại phiên tòa phúc thẩm;

Bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như nội dung án sơ thẩm và giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu phát biểu quan điểm về vụ án: Bản án sơ thẩm đã xét xử đối với bị cáo là có căn cứ và đúng pháp luật, mức án đã tuyên phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo. Tại phiên tòa, bị cáo không cung cấp được chứng cứ nào mới làm căn cứ xin giảm hình phạt, hưởng án treo. Do vậy, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo, giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng:

Đơn kháng cáo của bị cáo Nguvễn Hồ Ngọc T gửi trong thời hạn luật định nên hợp lệ, được chấp nhận xem xét theo trình tự thủ tục phúc thẩm.

[2] Về tội danh và điều luật áp dụng:

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm và phù hợp với các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thể hiện:

Vào lúc 22 giờ 45 phút ngày 04/9/2022 bị cáo T là nhân viên cửa hàng Bách hóa xanh tại xã A, huyện L, tỉnh BRVT được anh Phạm Văn T2 là quản lý của cửa hàng giao nhiệm vụ làm thu ngân. Do tin tưởng nên anh T2 đã giao chìa khóa két sắt đựng tiền trong cửa hàng cho T quản lý để lấy tiền thối trả cho khách mua hàng. Sau đó T chiếm đoạt số tiền 30.000.000đ trong Két sắt mà anh T2 chịu trách nhiệm quản lý số tiền đó đối với Công ty cổ phần T4.

Do vậy, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử Nguyễn Hồ Ngọc T phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 1 Điều 175 Bộ luật Hình sự là hoàn toàn có căn cứ và đúng pháp luật.

[3] Về kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo:

Hành vi phạm tội của bị cá o là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ nên cần xử lý nghiêm theo quy định để giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm.

Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đã bồi thường khắc phục hậu quả, bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo và áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình và quyết định xử phạt bị cáo 08 tháng tù là có căn cứ, tương xứng với tích chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội.

Xét bị cáo là phụ nữ, tuổi còn rất trẻ, phạm tội lần đầu do bột phát nhất thời. Bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, có nhân thân tốt, có nơi cư trú cụ thể, rõ ràng, có khả năng tự cải tạo nên không cần thiết phải cách ly bị cáo khỏi xã hội mà áp dụng Điều 65 Bộ luật hình sự cho bị cáo hưởng án treo cũng đủ tác dụng giáo dục bị cáo thành người có ích cho xã hội.

Do vậy, Hội đồng xét xử phúc thẩm có căn cứ chấp nhận kháng cáo xin hưởng án treo của bị cáo, sửa bản án sơ thẩm về phần hình phạt đối với bị cáo.

[4] Về án phí: Bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[5] Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực từ khi hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm e khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng Hình sự.

1. Chấp nhận kháng cáo của Nguyễn Hồ Ngọc T, sửa Bản án sơ thẩm số 53/2023/HSST ngày 07-4-2023 của Tòa án nhân dân huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu.

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Hồ Ngọc T phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.

Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 175; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38, Điều 65 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Nguvễn Hồ Ngọc T 08 (tám) tháng tù nhung cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 16 (mười sáu) tháng tính từ ngày tuyên án phúc thẩm (ngày 19-6-2023).

Giao bị cáo Nguyễn Hồ Ngọc T cho Ủy ban nhân dân xã A, huyện L, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo; nếu phạm tội mới trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định của Bộ luật hình sự.

2. Các quyết định khác của Bản án hình sự sơ thẩm số 53/2023/HSST ngày 07-4-2023 của Tòa án nhân dân huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ khi hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

3. Về án phí: Bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

11
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản số 52/2023/HS-PT

Số hiệu:52/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/06/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về