TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC THỌ, TỈNH HÀ TĨNH
BẢN ÁN 34/2023/HS-ST NGÀY 06/09/2023 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
Ngày 06 tháng 9 năm 2023, tại điểm cầu trung tâm Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh và điểm cầu thành phần Trại tạm giam Công an Hà Tĩnh, xét xử sơ thẩm, trực tuyến, công khai vụ án hình sự thụ lý số 30/2023/TLST- HS ngày 11/8/2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 36/2023/QĐXXST-HS ngày 22/8/2023, đối với bị cáo:
NGUYỄN XUÂN D (Tên gọi khác: Không), sinh ngày 14 tháng 5 năm 1990, tại xã Trung Phúc C, huyện Nam Đ, tỉnh Nghệ An; nơi cư trú: Thôn Đông Th, xã Trung Phúc C, huyện Nam Đ, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 12/12; con ông Nguyễn Xuân H, sinh năm 1957, con bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1958; vợ: Nguyễn Thị Th, sinh năm 1999; con: Có 02 con, đứa lớn sinh năm 2017, đứa nhỏ sinh năm 2019; anh chị em ruột có 3 người, bị cáo là con thứ ba; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị tạm giam từ ngày 31/3/2023 đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an Hà Tĩnh, (Có mặt tại phiên tòa).
Người bị hại: Trung tâm nghệ thuật Dream Land; trụ sở: Số nhà 103 Đặng Thái Th, khối 5, phường Cửa N, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An;
Đại diện theo pháp luật: Ông Mai Kim T, sinh năm 1963 (Giám đốc); nơi cư trú: Khối Trung M, phường Lê M, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: Kinh doanh, (Vắng mặt tại phiên tòa).
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
-Doanh nghiẹp tư nhân Kim Tuyến H; trụ sở: Tổ dân phố 8, thị trấn Đức Th, huyện Đức Th, tỉnh Hà Tĩnh;
Đại diện theo pháp luật: Ông Trần H, sinh năm 1983 (Giám đốc doanh nghiệp);
nơi cư trú: Khối 6 phường Bến Th, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: Kinh doanh (Vắng mặt tại phiên toà);
Đại diện theo uỷ quyền: Ông Trần Quốc T, sinh năm 1994 (Nhân viên của doanh nghiệp); nơi cư trú: Thôn Yên C, xã Hoà L, huyện Đức Th, tỉnh Hà Tĩnh, (Có mặt tại phiên toà)
-Ông Trần Quốc T, sinh năm 1994 (Nhân viên của doanh nghiệp); nơi cư trú:
Thôn Yên C, xã Hoà L, huyện Đức Th, tỉnh Hà Tĩnh, (Có mặt tại phiên toà)
-Anh Mai Xuân T, sinh năm 1994; nơi cư trú: Xóm Phúc H, xã Nghi L, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: Lao động tự do, (Vắng mặt tại phiên tòa).
-Chị Lê Thị Thu H, sinh năm 1989; nơi cư trú: Khối Trung M, phường Lê M, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: Lao động tự do, (Vắng mặt tại phiên tòa).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Ngày 15/11/2022, Nguyễn Xuân D đến Trung tâm nghệ thuật Dream Land ở số nhà 103 Đặng Thái Th, khối 5, phường Cửa N, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An để thuê xe ô tô. Khi đến Trung tâm, Nguyễn Xuân D được anh Mai Xuân T giới thiệu và cho D thuê chiếc xe ô tô nhãn hiệu Huyndai Grand i10, sơn màu trắng, biển kiểm soát 37A-X, hai bên thỏa thuận giá thuê là 500.000 đồng/ngày, rồi cùng nhau ký kết hợp đồng thuê chiếc xe ô tô nói trên trong thời gian 10 ngày, với tổng số tiền thuê là 5.000.000 đồng. Sau khi ký hợp đồng, Nguyễn Xuân D thanh toán cho anh Mai Xuân T số tiền 5.000.000 đồng, anh Mai Xuân T giao chiếc xe ô tô nói trên kèm theo 01 giấy đăng ký xe mang tên Lê Thị Thu H; 01 giấy đăng kiểm và 01 giấy chứng nhận bảo hiểm dân sự của chiếc xe.
Đến ngày 17/11/2022, Sau khi thuê được xe, Nguyễn Xuân D nảy sinh ý định chiếm đoạt chiếc xe ô tô nói trên, đưa đi cầm cố để lấy tiền tiêu xài cá nhân. Nguyễn Xuân D, đã đăng nhập tài khoản Facebook “Nguyễn Dũng” của mình nhắn tin qua ứng dụng Mesenger với trang Facebook tên là “Anh Ngũ dịch vụ giấy tờ” đặt làm giấy đăng ký chiếc xe ô tô, biển kiểm soát 37A-X đã thuê với thông tin tên người sở hữu là Nguyễn Xuân D, sinh năm 1990, trú tại thôn Đông Th, xã Trung Phúc C, huyện Nam Đ, tỉnh Nghệ An, với giá 2.000.000 đồng. Đến ngày 21/11/2022, Nguyễn Xuân D nhận được giấy đăng ký xe đã đặt làm nói trên từ một người phụ nữ làm nghề giao hàng, đồng thời Nguyễn Xuân D đưa cho người phụ nữ này số tiền 2.000.000 đồng. Sau khi nhận được giấy đăng ký xe ô tô giả, ngày 22/11/2022, Nguyễn Xuân D điều khiển chiếc xe ô tô nói trên đến Doanh nghiệp tư nhân Kim Tuyến H của anh Trần H để cầm cố thì gặp anh Trần Quốc T là nhân viên của Doanh nghiệp. Nguyễn Xuân D đưa căn cước công dân mang tên Nguyễn Xuân D và giấy đăng ký xe giả mang tên Nguyễn Xuân D cho anh Trần Quốc T để cầm cố lấy số tiền 200.000.000 đồng. Sau khi kiểm tra, đối chiếu xác định Nguyễn Xuân D là chủ sở hữu chiếc xe ô tô nói trên, nên anh T đồng ý cho Nguyễn Xuân D cầm cố chiếc xe ô tô trong thời hạn 03 ngày, từ ngày 22/11/2022 đến ngày 24/11/2022 với số tiền 200.000.000 đồng. Sau đó, anh Trần H đã chuyển khoản số tiền 200.000.000 đồng vào tài khoản số 19908866X Ngân hàng Á Châu của Nguyễn Xuân D. Đến hạn hợp đồng, không thấy Nguyễn Xuân D đến nhận lại xe thì Trần Quốc T gọi điện thoại cho D nhưng không liên lạc được nên đã báo sự việc cho anh Trần H. Sau đó, anh Trần H mang giấy đăng ký xe ô tô của Nguyễn Xuân D đến Văn phòng công chứng ở thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An kiểm tra thì phát hiện đó là giấy đăng ký giả. Đến ngày 29/3/2023, anh Trần Quốc T trình báo sự việc đến cơ quan Công an huyện Đức Th. Đến ngày 30/3/2023, Cơ quan điều tra triệu tập Nguyễn Xuân D đến làm việc thì Nguyễn Xuân D đã khai nhận hành vi phạm tội của mình.
Tại Bản kết luận định giá tài sản số 23/KLĐG-HĐĐGTS ngày 31/5/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng huyện Đức Th, kết luận: Xe ô tô con nhãn hiệu Huyndai, số loại Grand, sơn màu trắng, biển kiểm soát 37A-X trị giá 200.000.000 đồng.
Tại Bản kết luận giám định số 440/KL-KTHS ngày 28/4/2023 của Phòng kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Hà Tĩnh, kết luận: Mẫu phôi trên mẫu cần giám định so với mẫu phôi trên mẫu so sánh không cùng một loại phôi; Hình dấu có nội dung “Công an tỉnh Nghệ An - Phòng Cảnh sát giao thông” trên mẫu cần giám định là hình dấu in phun màu, không phải hình dấu đóng trực tiếp; Chữ ký đề tên Thượng tá Trần Đình Kh trên mẫu cần giám định là chữ ký in phun màu, không phải chữ ký trực tiếp.
*Vật chứng cơ quan điều tra đã thu giữ:
01 hợp đồng thuê xe ô tô; 01 giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô biển kiểm soát 37A- X mang tên Lê Thị Thu H; 01 hợp đồng cho vay cầm cố tài sản giữa Doanh nghiệp tư nhân Kim Tuyến H và Nguyễn Xuân D; 01 giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô biển kiểm soát 37A-X mang tên Nguyễn Xuân D; 01 chiếc xe ô tô nhãn hiệu Huyndai Grand i10, sơn màu trắng, biển kiểm soát 37A-X.
Quá trình điều tra xác định được chiếc xe ô tô và Giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô biển kiểm soát 37A-X mang tên Lê Thị Thu H là của chị Lê Thị Thu H giao cho ông Mai Kim T quản lý, sử dụng kinh doanh dịch vụ cho thuê ô tô tự lái, nên Cơ quan điều tra đã trả lại tài sản trên cho chủ sở hữu. Còn những giấy tờ, tài liệu khác được lưu vào hồ sơ vụ án.
Còn chiếc điện thoại di động Nguyễn Xuân D sử dụng đăng nhập mạng xã hội để đặt làm giấy tờ giả, Nguyễn Xuân D đã bán cho một người không quen biết ở thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An vào khoảng tháng 01/2023, nên Cơ quan điều tra không thu giữ được.
* Về trách nhiệm dân sự: Bị hại ông Mai Kim T không yêu cầu bị cáo bồi thường gì. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là Doanh nghiệp tư nhân Kim Tuyến H do anh Trần Quốc T là đại diện theo ủy quyền yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền gốc là 200.000.000 đồng và số tiền lãi tương đương số tiền gốc với lãi suất 10%/năm.
Bản cáo trạng số 34/CT-VKS-ĐT ngày 09/8/2023, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Th đã truy tố Nguyễn Xuân D về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại khoản 3 Điều 175 Bộ luật Hình sự và tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” theo quy định tại điểm c khoản 3 Điều 341 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa hôm nay đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố vẫn giữ nguyên truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:
Áp dụng khoản 3 Điều 175; điểm c khoản 3 Điều 341; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 55 Bộ luật Hình sự, xử phạt: Nguyễn Xuân D từ 05 năm đến 05 năm 06 tháng tú về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”; từ 03 năm 06 tháng đến 04 năm tù về tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”. Tổng hợp hình phạt cho cả hai tội, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung từ 08 năm 06 tháng tù đến 09 năm 06 tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 31/3/2023.
Áp dụng dụng Điều 584, Điều 585 và Điều 589 Bộ luật Dân sự buộc bị cáo phải bồi thường cho Doanh nghiệp tư nhân Kim Tuyến H số tiền 200.000.000 đồng và tiền lãi phát sinh.
Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung trên. Bị cáo không kêu oan. Lời nói sau cùng, bị cáo xin HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo cũng như những người tham gia tố tụng khác không ai có khiếu nại gì về hành vi, Quyết định tố tụng của cơ quan, người tiến hành tố tụng. Cơ quan Cảnh sát điều tra, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Th; các Điều tra viên, Kiểm sát viên thụ lý, giải quyết vụ án đã thực hiện đầy đủ, đúng trình tự, thủ tục tố tụng theo quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa vắng mặt người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan nhưng những người này đã có lời khai tại hồ sơ vụ án và việc vắng mặt họ không làm ảnh hưởng đến việc xét xử vụ án, nên Hội đồng xét xử căn cứ Điều 292 và Điều 293 Bộ luật Tố tụng hình sự, tiếp tục xét xử vụ án.
[2] Về tội danh: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá điều tra; phù hợp với lời khai của người bị hại cũng như phù hợp với những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đã chứng minh được:
Ngày 15/11/2022, Nguyễn Xuân D ký hợp đồng thuê xe ô tô của Trung tâm nghệ thuật Dream Land, với mức giá là 500.000đồng/ngày, với thời hạn thuê là 10 ngày. Đến thời hạn trả lại xe cho chủ cho thuê, mặc dù có điều kiện để trả nhưng Nguyễn Xuân D vẫn cố tình không trả mà cố ý chiếm đoạt chiếc xe và đưa đi cầm cố lấy tiền tiêu xài.
Chiếc xe ô tô biển kiểm soát 37A-X mà bị cáo thuê và chiếm đoạt đã được Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự xác định có giá là 200.000.000 đồng. Hành vi của bị cáo đã vi phạm vào khoản 3 Điều 175 Bộ luật Hình sự.
Để thực hiện được hành vi chiếm đoạt tài sản, đưa chiếc xe đi cầm cố, Nguyễn Xuân D đã thuê người làm giấy đăng ký xe ô tô giả mang tên mình đồng thời sử dụng giấy đăng ký giả để cầm cố, thu lợi số tiền 200.000.000 đồng. Hành vi này của bị cáo đã vi phạm vào điểm c khoản 3 Điều 341 Bộ luật Hình sự.
Nguyễn Xuân D là người có đầy đủ năng lực hành vi; biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố tình thực hiện; bị cáo thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực tiếp; hành vi của bị cáo đã xâm phạm quyền sở hữu về tài sản của người khác và trật tự quản lý hành chính Nhà nước được pháp luật bảo vệ. Vì vậy Hội đồng xét xử có đủ cơ sở khẳng định Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Th truy tố Nguyễn Xuân D về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại khoản 3 Điều 175 và tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” theo quy định tại điểm c khoản 3 Điều 341 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ:
Tình tiết tăng nặng: Không.
Tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra cũng như tại phiên toà hôm nay, bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn; bố của bị cáo là người tham gia chiến dịch dân công hoả tuyến, được Bộ tư lệnh Quân khu 4 chứng nhận nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
[4] Về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi và mức hình phạt:
Hành vi phạm tội của bị cáo là rất nghiêm trọng đã xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản và trật tự quản lý hành chính được pháp luật bảo vệ, làm ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương. Vì vậy đối với bị cáo cần phải lên một mức án đủ nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi nhằm răn đe, giáo dục chung. Bị cáo cùng một lúc phạm nhiều tội nên cần lên mức án tương ứng đối với từng tội và áp dụng Điều 55 Bộ luật Hình sự để tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai tội đồng thời phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian, như đại diện Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp, đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật. Tuy nhiên cũng cần xem xét giảm nhẹ cho bị cáo phần nào, thể hiện tính khoan hồng của pháp luật.
[5] Hình phạt bổ sung: Xét bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn; bản thân không có việc làm nên không áp dụng hình phạt bổ sung.
[6] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm nên miễn xét.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là Doanh nghiệp tư nhân Kim Tuyến H do anh Trần Quốc T là đại diện theo ủy quyền yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền gốc là 200.000.000 đồng và số tiền lãi tương đương số tiền gốc với lãi suất 10%/năm, xét yêu cầu của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là có căn cứ nên cần chấp nhận. Mức lãi suất 10% năm đối với số tiền 200.000.000 đồng, tính từ ngày 22/11/2022 đến ngày 06/9/2023, được tính cụ thể như sau:
(200.000.000 đ x 289 ngày x 10%) : 365 ngày = 15.835.616 đồng.
[7] Về vật chứng: Cơ quan điều tra đã trả lại chiếc xe ô tô biển kiểm soát 37A- X và Giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô biển kiểm soát 37A-X mang tên Lê Thị Thu H cho chị Lê Thị Thu H là đúng pháp luật.
01 hợp đồng thuê xe ô tô; 01 hợp đồng cho vay cầm cố tài sản giữa Doanh nghiệp tư nhân Kim Tuyến H và Nguyễn Xuân D; 01 giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô biển kiểm soát 37A-X mang tên Nguyễn Xuân D cần tiếp tục lưu vào hồ sơ vụ án.
[8] Trong vụ án này, người quản lý trang Facebook “Anh Ngũ dịch vụ giấy tờ” mà Nguyễn Xuân D khai đã làm giấy đăng ký xe ô tô giả cho D, do còn thiếu thông tin nên Cơ quan điều tra không thể xác minh người này để điều tra, làm rõ là đúng pháp luật.
[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Xuân D phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” và tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”.
2. Về hình phạt:
Căn cứ khoản 3 Điều 175; điểm c khoản 3 Điều 341 điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 55 Bộ luật Hình sự, xử phạt Nguyễn Xuân D 05 năm tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”; 03 năm 06 tháng tù về tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”. Tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai tội là 08 (Tám) năm 06 (Sáu) tháng tù, thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 31/3/2023.
3.Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 584, Điều 585 và Điều 589 Bộ luật Dân sự, buộc bị cáo Nguyễn Xuân D phải bồi thường cho Doanh nghiệp tư nhân Kim Tuyến H số tiền 200.000.000 đồng tiền gốc và số tiền lãi từ ngày 22/11/2022 đến ngày 06/9/2023 là 15.835.616 đồng, tổng cộng là 215.835.616 đồng (Hai trăm mười lăm triệu tám trăm ba lăm ngàn sáu trăm mười sáu đồng).
4.Về vật chứng: Tiếp tục lưu vào hồ sơ vụ án: 01 hợp đồng thuê xe ô tô; 01 hợp đồng cho vay cầm cố tài sản giữa Doanh nghiệp tư nhân Kim Tuyến H và Nguyễn Xuân D; 01 giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô biển kiểm soát 37A-X mang tên Nguyễn Xuân D.
5.Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23; Điều 26; khoản 1 Điều 27; mục 1, phần I và mục 1 phần II danh mục án phí, lệ phí Tòa án ban hành kèm theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội buộc bị cáo phải nộp 200.000đồng (Hai trăm ngàn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm và 10.791.781 đồng (Mười triệu bảy trăm chín mốt ngàn bảy trăm tám mốt đồng) án phí dân sự.
6.Về quyền kháng cáo: Bị cáo Nguyễn Xuân D; Doanh nghiệp tư nhân Kim Tuyến H; người có QLNV liên quan ông Trần Quốc T có mặt, có quyền kháng cáo Bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có QLNV liên quan vắng mặt, có quyền kháng cáo Bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc niêm yết Bản án.
7. Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu người phải thi hành án chậm trả tiền thì phải trả lãi đối với số tiền chậm trả theo lãi suất được quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự, tương ứng với thời gian chậm trả tại thời điểm thanh toán.
8. Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản số 34/2023/HS-ST
Số hiệu: | 34/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Đức Thọ - Hà Tĩnh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 06/09/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về