TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG
BẢN ÁN 30/2023/HS-ST NGÀY 30/06/2023 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
Ngày 30 tháng 6 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới xét xử sơ thẩm trực tuyến công khai vụ án hình sự thụ lý số: 31/2023/TLST-HS ngày 30 tháng 5 năm 2023, theo Quyết định đua vụ án ra xét xử số: 31/2023/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 6 năm 2023, đối với bị cáo:
Thái Hữu N, sinh năm 1997, tại huyện C, tỉnh An Giang; nơi cư trú: ấp C, xã B, huyện C, tỉnh An Giang; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa (học vấn): 7/12 (tại phiên tòa bị cáo khai học hết lớp 6/12); dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Thái Văn M (chết) và bà Nguyễn Thị L; bị cáo chưa có vợ, con;
Tiền án, tiền sự: chưa;
Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 09/3/2023 đến ngày 12/3/2023 chuyển tạm giam cho đến nay; có mặt.
- Bị hại: Bà Huỳnh Thị H, sinh năm 1965; địa chỉ: số nhà B, Tổ I, ấp N, xã N, huyện C, tỉnh An Giang; vắng mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án:
+ Ông Đào Minh T, sinh năm 1987; địa chỉ: số nhà B, Tổ I, ấp N, xã N, huyện C, tỉnh An Giang; nơi ở hiện tại: Nhà trọ Võ Thị H1, Tổ G, khu phố D, phường V, thị xã T, tỉnh Bình Dương; vắng mặt.
+ Bà Nguyễn Thị Thu H2, sinh năm 1989; địa chỉ: số nhà B, Tổ I, ấp N, xã N, huyện C, tỉnh An Giang; nơi ở hiện tại: Nhà trọ Võ Thị H1, Tổ G, khu phố D, phường V, thị xã T, tỉnh Bình Dương; vắng mặt.
+ Ông Đào Duy N1, sinh năm 1962; địa chỉ: khóm P, thị trấn A, huyện C, tỉnh An Giang; vắng mặt.
- Người làm chứng: Ông Đoàn Văn C; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng đầu tháng 8/2022, N có ở nhờ nhà bà Huỳnh Thị H (là bác sui của N), để chăm sóc vết thương, do trước đó N bị tai nạn giao thông. Đến khoảng 10 giờ ngày 17/8/2022, bà H có nhờ Nghị trông, giữ nhà và tài sản trong nhà, để bà H đi công việc tại Thành phố L, tỉnh An Giang, N đồng ý. Lợi dụng việc được bà H tin tưởng cho trông nhà, nên N nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản xe mô tô biển số 67L2-713xx của Đoàn Minh T1, Nguyễn Thị Thu H2 (là con trai, con dâu bà H) gửi tại nhà bà H, để bán lấy tiền tiêu xài và chuộc lại xe biển số 67E1- 357.xx của nghị đã cầm trước đó cho Đào Duy N1 với giá 17.000.000 đồng. Khi lấy được xe 67L2-713xx, N điều khiển xe đến tiệm cầm đồ của NI tại thị trấn A, huyện C, cầm cho N1 với giá là 20.000.000 đồng, chuộc xe của N rồi bỏ trốn. Đến khoảng 14 giờ cùng ngày, khi bà H về phát hiện mất xe, N không có ở nhà, nên đã trình báo công an xã N. Do Nbỏ trốn, nên ngày 13/02/2022 Công an huyện C, tỉnh An Giang có quyết định truy nã đối với N, đến ngày 09/3/2023 N ra đầu thú.
Vật chứng thu giữ và xử lý: 01 xe mô tô biển số 67L2-713xx, đã trả lại cho chủ sở hữu.
Tại Bản kết luận định giá tài sản số 49/KL-HĐĐG.TTHS ngày 14/10/2022, kết luận: Tổng giá trị tài sản 22.000.000 đồng.
Tại Cáo trạng số 29/CT-VKSCM ngày 29 tháng 5 năm 2023, Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới đã truy tố Thái Hữu N về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 1 Điều 175 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa, - Bị cáo thừa nhận đã thực hiện hành vi phạm tội nhu nội dung Cáo trạng truy tố, xác định số tiền 400.000 đồng do phạm tội mà có, sẽ giao nộp lại, tự nguyện hoàn trả cho ông N1 số tiền 22.000.000 đồng, xác định về nhân thân học hết lớp 6/12 và xác định không bị thu, giữ tài sản nào trong giai đoạn điều tra. Bị cáo không có ý kiến tranh luận với lời luận tội của Kiểm sát viên; tại lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử, xử phạt nhẹ đối với bị cáo.
- Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án vắng mặt tại phiên tòa.
Đại diện Viện kiểm sát luận tội đối với bị cáo, giữ nguyên quyết định truy tố nhu Cáo trạng. Căn cứ vào tính chất, mức độ phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của người phạm tội, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản điểm a khoản 1 Điều 275; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo Thái Hữu N từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù; không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo; xác nhận Cơ quan điều tra đã trả lại chiếc xe mô tô nhãn hiệu WINNERX, màu đen bạc vàng đồng, biển số 67L2-713xx và 01 giấy đăng ký xe mô tô mang tên Nguyễn Thị Thu H2 cho bà H là hợp pháp, đề nghị trách nhiệm dân sự đối với bị cáo: ghi nhận sự tự nguyện của bị cáo tại phiên tòa, buộc bị cáo trả cho ông N1 số tiền 20.000.000 đồng theo yêu cầu của ông N1; đối với số tiền 400.000 đồng bị cáo tự nguyện giao nộp, đây là số tiền do phạm tội mà có, nên đề nghị sung quỹ nhà nước.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về thủ tục tố tụng: Đối với hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên và Kiểm sát viên đã thực hiện đều hợp pháp.
- Về sự vắng mặt của người tham gia tố tụng: Tại phiên tòa bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng vắng mặt, mặc dù Tòa án đã tống đạt giấy triệu tập hợp lệ. Xét thấy, sự vắng mặt của họ không gây trở ngại gì đến việc xét xử của vụ án. Căn cứ Điều 292, 293 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án theo thủ tục chung.
- Về việc xác định chuyển tội danh trong quá trình điều tra, truy tố: Việc Cơ quan điều tra, sau khi xét về hành vi của bị cáo, đã thực hiện chuyển tội danh đối với bị cáo là phù hợp quy định của pháp luật tố tụng hình sự.
[2] Về nội dung: Quá trình điều tra, cũng như tại phiên tòa bị cáo Thái Hữu N khai nhận hành vi, cách thức thực hiện tội phạm phù hợp với lời khai của bị cáo trong giai đoạn điều tra, nội dung Cáo trạng đã truy tố bị cáo, phù hợp với lời khai của bị hại H, lời khai người làm chứng, người có quyền lợi nghĩa vụ liên và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do vậy, có đủ cơ sở xác định vào khoảng 10 giờ ngày 17/8/2022 do được bà H nhờ trông coi nhà, giữ tài sản, sau khi bà H đi khỏi nhà, N đã nảy sinh việc chiếm đoạt tài sản là xe mô tô biển số 67L2-713xx, cùng với giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe gắn máy biển số 67L2-713xx mang tên Nguyễn Thị Thu H2, với mục đích cầm cố xe lấy tiền tiêu sài cá nhân và chuộc lại tài sản trước đó của bị cáo đã cầm cố; nên bị cáo đã di chuyển bằng xe này đến tiệm cầm đồ của Đào Duy N1 là chủ tiệm cầm đồ “Vũ Việt” tại thị trấn A, huyện C, cầm cố với số tiền 20.000.000 đồng, dùng tiền này chuộc lại xe của N đã cầm trước đó với giá 19.600.000 đồng, còn 400.000 đồng Nghị tiêu xài cá nhân.
Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây mất trật tự an ninh tại địa phương, khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật, bị cáo cố ý thực hiện hành vi chiếm đoạt, bị cáo lợi dụng sự tin tưởng của bị hại, khi được bị hại tin tưởng nhờ trông coi nhà và tài sản trong nhà, nên bị hại đã thực hiện hành vi phạm tội với giá trị tài sản là 22.000.000 đồng. Vì vậy, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”, tội phạm và hình phạt quy định tại điểm a khoản 1 Điều 175 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), có khung hình phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm (tội phạm ít nghiêm trọng).
[3] Xét tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm, Hội đồng xét xử nhận thấy: Hành vi phạm tội của bị cáo, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, nhưng sau khi phạm tội bị cáo đã bỏ trốn, Cơ quan Cảnh sát điều tra phải thực hiện lệnh truy nã đối với bị cáo, điều này chứng tỏ bị cáo không nhận ra sai lầm của mình, sau khi nhận thấy bị truy nã bị cáo đã đầu thú. Tuy nhiên, hiện nay trên địa bàn huyện C các tội phạm về chiếm đoạt tài sản, xâm phạm quyền sở hữu của người khác có chiều hướng gia tăng, đây là nguyên nhân làm mất ổn định tình hình an ninh chính trị tại địa phương. Do đó, việc buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù cách ly khỏi xã hội là cần thiết, cần chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa để buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù có thời hạn một thời gian mới có tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành người lương thiện, người công dân có ích cho xã hội. Mức hình phạt tù có thời hạn mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị là tương xứng với tính chất mức độ phạm tội mà bị cáo đã gây ra, đề nghị này được Hội đồng xét xử chấp nhận.
[4] Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của người phạm tội, Hội đồng xét xử nhận thấy: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên toà hôm nay, bị cáo đã tỏ rõ thái độ thành khẩn khai báo, bị cáo đầu thú, trước khi phạm tội bị cáo là người có nhân thân tốt. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.
[5] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 175 Bộ luật Hình sự bị cáo có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng. Tuy nhiên, bị cáo không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định, hiện điều kiện hoàn cảnh kinh tế còn khó khăn, nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của Kiểm sát viên tại phiên tòa, quyết định miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.
[6] Về trách nhiệm của người có liên quan: Bị cáo khai nhận, sau thực hiện hành vi phạm tôi, xe biển số 67L2-713xx bị cáo đem cầm cố cho ông Đào Duy N1, cùng giấy tờ xe số 67L2-713xx, nhưng không cho ông N1 biết đây là tài sản do N phạm tội mà có, quá trình điều tra ông N1 đã bàn giao xe này cho Cơ quan điều tra để phục vụ điều tra, nên việc không xử lý hành vi cầm cố tài sản của ông N1 là phù hợp.
[7] Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Hội đồng xét xử nhận thấy, trong giai đoạn điều tra, Cơ quan điều tra giao trả lại cho người bị hại là bà Huỳnh Thị H 01 (một) xe mô tô biển số 67L2-713xx, màu đen bạc vàng đồng và 01 (một) giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe gắn máy biển số 67L2-713xx (theo biên bản về việc trả lại tài sản, đồ vật, tài liệu ngày 16/11/2022 của Công an huyện C). Do vậy, Hội đồng xét xử không đề cập xem xét, quyết định. Đối với số tiền 400.000 đồng do bị cáo phạm tội mà có, bị cáo tự nguyện giao nộp. Vì vậy, cần sung quỹ Nhà nước đối với số tiền 400.000 đồng.
[8] Về trách nhiệm dân sự, Hội đồng xét xử nhận thấy: Do bị hại không có yêu cầu bồi thường, nên không đề cập xem xét, quyết định. Đối với yêu cầu của ông Đào Duy N1: Yêu cầu bị cáo phải trả lại số tiền 20.000.000 đồng tại phiên tòa bị cáo tự nguyện trả lại, nên Hội đồng xét xử ghi nhận sự tự nguyện của bị cáo.
[9] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định pháp luật; Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo theo quy định pháp luật tố tụng hình sự.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Thái Hữu N phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”;
Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 175, điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);
Xử phạt: Thái Hữu N: 01 (một) năm tù.
Thời hạn chấp hành hình phạt tù của bị cáo được tính kể từ ngày bị tạm giữ, tạm giam ngày 09/3/2023.
2. Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017), vật chứng là xe mô tô loại WINNERX, màu đen bạc vàng đồng, biển số 67L2-713xx và 01 giấy đăng ký xe mô tô mang tên Nguyễn Thị Thu H2 đã được trả lại cho bị hại (theo biên bản về việc trả lại tài sản, đồ vật, tài liệu ngày 16/11/2022 của Công an huyện C), nên không đề cập xem xét, quyết định. Buộc bị cáo giao nộp số tiền 400.000 đồng (bốn trăm nghìn đồng) do phạm tội mà có, sung quỹ Nhà nước.
3. Về trách nhiệm dân sự: căn cứ Điều 48 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); các Điều 123, 407 Bộ luật Dân sự năm 2015;
Buộc bị cáo Thái Hữu N, phải có nghĩa vụ trả lại cho ông Đào Duy N1 số tiền 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng).
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.
4. Về án phí: căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a, c khoản 1 Điều 23, Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Buộc bị cáo Thái Hữu N phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 1.000.000 đồng (một triệu đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
5. Về quyền kháng cáo: căn cứ vào Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;
Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Đối với bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản số 30/2023/HS-ST
Số hiệu: | 30/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - An Giang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 30/06/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về