Bản án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản số 28/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN IA GRAI, TỈNH GIA LAI

BẢN ÁN 28/2023/HS-ST NGÀY 15/06/2023 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 15 tháng 6 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Ia Grai, tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 27/2023/HSST ngày 18 - 5 - 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 20/2023/QĐXXST-HS ngày 23 - 5 - 2023 đối với bị cáo: Lâm Minh C, sinh ngày 20 tháng 5 năm 2003 tại tỉnh S; nơi cư trú: ấp S, xã T, huyện M, tỉnh S; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: học lớp 5/12; dân tộc: Khơ me; tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Lâm Trung N và bà Nguyễn Thị H; tiền án, tiền sự: không.

Về nhân thân: ngày 21 tháng 12 năm 2020 có hành vi cướp giật tài sản; ngày 05 tháng 5 năm 2021 bị Toà án nhân dân thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai xử phạt 04 tháng 14 ngày tù về tội Cướp giật tài sản, tại bản án số 45/2021/HSST. Bị cáo đã chấp hành xong bản án.

Bị cáo bị tạm giữ và chuyển sang tạm giam từ ngày 28 tháng 02 năm 2023 cho đến nay và có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Anh Ksor T, sinh năm 2002; trú tại: làng M, xã Ia, huyện I, tỉnh G (có mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông P, sinh năm 1963; trú tại: làng M, xã Ia, huyện I, tỉnh G (có mặt).

- Người làm chứng: Ông Lâm Trung N, sinh năm 1980; trú tại: làng B, xã Ia, huyện I, tỉnh G (vắng mặt).

- Người phiên dịch: Anh Puih DJiên (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 17 giờ 30 phút ngày 26/5/2020, anh Ksor T điều khiển xe mô tô Exciter, màu xanh đen, biển kiểm soát 81B2 - x mượn của ông P (bố của T) đi chơi Internét tại làng Mít Kom 2, xã Ia O, huyện Ia Grai, tỉnh Gia Lai. Tại đây T gặp Lâm Minh C là người quen trước đó, C nói với T cho mượn chiếc xe nói trên để đi công việc một lát rồi trả lại, T đồng ý và giao chìa khoá xe cho C mượn. C điều khiển xe đi về thành phố Pleiku, khi mở cốp xe để đổ xăng thì phát hiện trong xe có 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu Samsung Galaxy M10, màu đen của T nên C lấy sử dụng. Đến khoảng 23 giờ cùng ngày không thấy C đem xe trả nên T gọi điện cho C yêu cầu trả xe thì C nói đang đi công việc một lát nữa sẽ đem xe đến trả. Sau khi nghe điện thoại của T xong, C nảy sinh ý định chiếm đoạt chiếc xe nói trên nên tắt điện thoại, cắt liên lạc với T. Sau khi đợi một lát không thấy C quay lại trả xe, T tiếp tục gọi điện cho C nhưng không liên lạc được nên T đi bộ về nhà báo cho ông P biết. Ngày hôm sau C đem xe đến khu vực xã Biển Hồ, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai bán cho một người tên T1 (chưa xác định được nhân thân, lai lịch) lấy 15.000.000đ tiêu xài cá nhân hết, còn chiếc điện thoại C làm mất trong quá trình sử dụng. Khoảng tháng 12/2020 T gặp lại C đòi lại xe mô tô thì C nói với T đã bán xe cho người khác. Sau đó C cùng với ông Lâm Trung N, anh Ksor T và ông P đến khu vực Biển Hồ tìm T1 để chuộc xe, thì T1 nói xe đã bán cho người khác nên không lấy lại được, sau đó C bỏ trốn khỏi địa phương. Ông P trình báo cơ quan Công an, đến ngày 28/02/2023 C đến Công an xã Thạnh Phú, huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi của mình.

Tại kết luận định giá số 75/KL-HĐĐGTS ngày 29/10/2020 của Hội đồng định giá trong tố tụng huyện Ia Grai kết luận: Xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, Exciter, màu xanh đen, biển kiểm soát 81B2 - x, đã qua sử dụng vào ngày 26/5/2020 trị giá 30.000.000đ. Kết luận định giá số 17/KL-HĐĐGTS ngày 17/4/2023 của Hội đồng định giá trong tố tụng huyện Ia Grai kết luận: 01 chiếc điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy M10, màu đen, đã qua sử dụng vào ngày 26/5/2020 trị giá 1.300.000đ.

Cáo trạng số 29/CT-VKS ngày 17 tháng 5 năm 2023 của Viện kiểm sát Nhân dân huyện Ia Grai, tỉnh Gia Lai truy tố bị cáo Lâm Minh C về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 175 Bộ luật Hình sự.

Diễn biến tại phiên toà:

Bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi như trên. Lời nói sau cùng, bị cáo đề nghị giảm nhẹ hình phạt.

Bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan yêu cầu bị cáo bồi thường trị giá tài sản bị chiếm đoạt như đã định giá; đề nghị xét xử bị cáo theo quy định của pháp luật.

Trình bày luận tội, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo phạm tội "Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản " và đề nghị áp dụng điểm b khoản 1 Điều 175, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 90, Điều 91 và Điều 101 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo từ 12 đến 18 tháng tù. Về trách nhiệm dân sự, đề nghị áp dụng Điều 584, 586 và Điều 589 Bộ luật Dân sự: buộc bị cáo phải bồi thường thiệt hại và phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Hoạt động của các cơ quan và người tiến hành tố tụng: Trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố vụ án đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật tố tụng hiện hành; các tài liệu, chứng cứ thu thập được có tại hồ sơ vụ án là hợp pháp.

[2]. Về hành vi phạm tội: Ngày 26/5/2020 tại làng Mít Kom 2, xã Ia O, huyện Ia Grai, tỉnh Gia Lai bị cáo mượn chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter, biển kiểm soát 81B2-x, bên trong có chiếc điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy M10 của bị hại để đi công việc, hẹn một lát sẽ đem về trả. Tuy nhiên sau khi mượn được xe, bị cáo nảy sinh ý định chiếm đoạt nên cắt đứt liên lạc với bị hại, sau đó bán chiếc xe nói trên cho người khác lấy tiền tiêu xài rồi bỏ trốn. Tổng giá trị tài sản bị cáo chiếm đoạt của bị hại là 31.300.000đ, do đó Viện kiểm sát nhân dân huyện Ia Grai truy tố bị cáo về tội "Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản" theo khoản 1 Điều 175 Bộ luật Hình sự là có căn cứ. Xét hành vi của bị cáo là mượn tài sản của bị hại rồi bỏ trốn để chiếm đoạt chứ không phải sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại, nên bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 175 Bộ luật Hình sự.

[3]. Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Xét bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật, nhưng vì tham lam, muốn hưởng thụ tài sản bất chính nên đã phạm tội. Hành vi của bị cáo không những đã xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp tài sản của người khác, mà còn làm ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự, trị an ở địa phương nên bị cáo phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, đã ra đầu thú nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[4]. Khi phạm tội, bị cáo mưới 17 tuổi 06 ngày là người dưới 18 tuổi phạm tội, do đó khi lượng hình cần áp dụng các quy định về xử lý hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội quy định tại Điều 90, Điều 91 và Điều 101 Bộ luật Hình sự. Mục đích chủ yếu là để giáo dục, giúp đỡ bị cáo sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành công dân có ích cho xã hội.

[5]. Về hình phạt: Căn cứ tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo, cân nhắc tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, cần thiết cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để bị cáo có cơ hội cải tạo thành công dân có ích cho xã hội, đồng thời cũng là để răn đe và phòng ngừa chung.

[6]. Đối với người tên T1 là người đã mua chiếc xe mô nhãn hiệu Yamaha Exciter, biển kiểm soát 81B2-x do bị cáo chiếm đoạt của bị hại. Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh và làm rõ, nếu có căn cứ sẽ xử lý theo quy định của pháp luật.

[7]. Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ vào khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự, Điều 584, 586 và Điều 589 Bộ luật Dân sự. Bị cáo phải có trách nhiệm bồi thường chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, Exciter, màu xanh đen, biển kiểm soát 81B2 - x trị giá 30.000.000đ cho ông P và chiếc điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy M10, màu đen trị giá 1.300.000đ cho anh Ksor T.

[8]. Về án phí: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 175, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 90, Điều 91, Điều 101 và Điều 48 Bộ luật Hình sự; Điều 584, 586 và Điều 589 Bộ luật Dân sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

1. Tuyên bố bị cáo Lâm Minh C phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản".

2. Xử phạt bị cáo Lâm Minh C 12 (mười hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 28 tháng 02 năm 2023.

3. Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo phải bồi thường 30.000.000đ (ba mươi triệu đồng) cho ông P và 1.300.000đ (một triệu ba trăm nghìn đồng) cho anh Ksor T.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

3. Về án phí: Bị cáo Lâm Minh C phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 1.565.000đ (một triệu năm trăm sáu mươi lăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm để sung quỹ Nhà nước.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Bị cáo, bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

4
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản số 28/2023/HS-ST

Số hiệu:28/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ia Grai - Gia Lai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/06/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về