TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ AP, TỈNH GIA LAI
BẢN ÁN 14/2023/HS-ST NGÀY 20/07/2023 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
Ngày 20 tháng 7 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã AP, tỉnh Gia Lai, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 13/2023/TLST-HS ngày 23 tháng 5 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 14/2023/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 7 năm 2023 đối với bị cáo:
Nguyễn N. P. A, sinh năm 1993 tại Đại Từ, Thái Nguyên; nơi cư trú: Bôn Mi H, xã, huyện P, tỉnh G; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 04/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn X. T. và bà Đỗ T. B.; tiền án: Ngày 17/5/2018 bị Tòa án nhân dân huyện Chư Pưh, Gia Lai xử phạt 16 tháng tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo Bản án số 16/2018/HSST. Ngày 23/9/2020, chấp hành xong án phạt tù. Bị cáo chưa được xóa án tích (chưa nộp tiền thu lợi bất chính với số tiền 1.200.000 đồng); tiền sự: Không; nhân thân: ngày 14/11/2016 bị Tòa án nhân dân huyện Kbang, Gia Lai xử phạt 15 tháng tù về tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản; ngày 29/3/2018 bị Tòa án nhân dân huyện Phú Thiện, Gia Lai xử phạt 18 tháng tù về tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Ngày 23/9/2020 bị cáo đã chấp hàng xong hình phạt và đã được xóa án tích. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 14/02/2023 đến nay. Có mặt.
- Bị hại:
1. Anh Siu B, sinh năm 1993 Địa chỉ: B, xã Ithị xã A, tỉnh G. Vắng mặt.
2. Anh Ksor D. C, sinh năm 2005 Địa chỉ: B, xã I, huyện P, tỉnh G. Vắng mặt.
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
1. Anh Đàm Văn S, sinh năm 1998.
Địa chỉ: B, xã I, thị xã A, tỉnh G. Vắng mặt.
2. Anh Đinh N, sinh năm 1995.
Địa chỉ: Làng G, xã K, huyện M, tỉnh G. Vắng mặt.
3. Chị H, sinh năm 1992.
Địa chỉ: Làng G, xã K, huyện M, tỉnh G. Vắng mặt.
- Người làm chứng:
Anh Ksor L, sinh năm 2003 Địa chỉ: Tổ 6, phường H, thị xã A, tỉnh G. Vắng mặt.
- Người phiên dich: Ông Siu H; dân tộc Jrai Địa chỉ: Tổ 9, phường Đ, thị xã AP, tỉnh Gia Lai. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào tháng 12/2022, Nguyễn N. P. A đã 02 (hai) lần thực hiện hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản tại địa bàn huyện Phú Thiện và thị xã AP, cụ thể như sau:
Vụ thứ nhất: Khoảng 20 giờ ngày 14/12/2022, Nguyễn N. P. A đến nhà Ksor D. C (Sinh năm 2005, trú tại bôn Mi Hoan, xã Ia Hiao, Phú Thiện, Gia Lai) uống rượu cùng C và Ksor L – Sinh năm 2007, trú cùng bôn với C. Đến khoảng 01 giờ ngày 15/12/2022, A hỏi mượn xe mô tô của C để đi công việc, C đồng ý rồi cho A mượn xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, biển kiểm soát 61G1-180xx của mình. Sau đó, A điều khiển xe mô tô đến khu vực thị xã AP đi chơi lang thang trong thị xã từ ngày 15/12/2022 đến 16/12/2022. Ngày 17/12/2022, A đến chơi và ở lại nhà anh Siu B (Sinh năm 1993, trú tại bôn Rưng Ma Đoan, xã Ia Rbol, thị xã AP, Gia Lai). Khoảng 11 giờ ngày 19/12/2022, A điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 61G1-180xx của C đến quán bi da của anh Đàm Văn S (Sinh năm 1998, trú tại Buôn Hoai, xã Chư Băh, AP, Gia Lai) và rủ một số thanh niên người đồng bào thiểu số (không rõ lai lịch) đánh bida uống bia. Đến khoảng 17 giờ cùng ngày, A thua bida nên phải thanh toán số tiền đánh bida là 1.500.000 đồng (một triệu năm trăm nghìn đồng). Lúc này, do không đủ tiền trả nên A cầm cố xe mô tô biển kiểm soát 61G1-180xx của Ksor D. C cho anh S nhưng anh S không đồng ý và hỏi về nguồn gốc, giấy tờ xe thì A nói xe của mình còn giấy tờ xe để ở nhà và đưa căn cước công dân cho anh S xem thì anh S đồng ý nhận cầm cố xe mô tô với số tiền 1.500.000 đồng để trừ vào tiền chơi bida, A hẹn đến 19 giờ cùng ngày sẽ quay lại lấy xe và trả tiền cho anh S. Sau đó, A quay về nhà anh Siu B và không quay lại chuộc xe mô tô của Ksor D. C. Đến ngày 30/12/2022 Ksor D. C đã làm đơn trình báo sự việc đến cơ quan Công an.
Tại Kết luận định giá số 01/KL-HĐĐG ngày 12/01/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự huyện Phú Thiện kết luận xe mô tô biển kiểm soát 61G1-180xx nhãn hiệu Yamaha Sirius trị giá 4.500.000 đồng (bốn triệu năm trăm nghìn đồng).
Vụ thứ hai: Khoảng 20 giờ 30’ ngày 28/12/2022, A cùng anh Siu B, Nay P – Sinh năm 1997, Ksor K – Sinh năm 2000, cùng trú tại bôn Rưng Ma Đoan, Ia RBol, AP đến nhậu tại quán của chị Rcom H’Hoai (Sinh năm 1996, trú tại bôn Rưng Ma Đoan, Ia RBol, AP). Trong lúc nhậu, B nói không đủ tiền trả tiền nhậu nên nói A lấy xe mô tô của B đi mượn tiền. A đồng ý rồi điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 81D1-255.xx nhãn hiệu Honda Wave Alpha của B đi đến quán bida của anh Đàm Văn S để mượn tiền nhưng quán đóng cửa. Lúc này, A nảy sinh ý định chiếm đoạt xe mô tô của B nên điều khiển xe mô tô đến nhà anh Lê Văn Q (Sinh năm 1998, trú tại xã Kon Chiêng, Mang Yang, Gia Lai) chơi và tìm người mua xe. Đến ngày 02/01/2023, A bán xe mô tô cho vợ chồng anh Đinh N – Sinh năm 1995 và chị H – Sinh năm 1992, cùng trú tại làng Git, xã Kon Chiêng, Mang Yang, Gia Lai với số tiền 6.000.000 đồng nhưng do không có giấy đăng ký xe nên chị H trả trước 4.500.000 đồng và hẹn giao giấy đăng ký xe thì trả số tiền còn lại. Sau khi bán xe A bỏ trốn đến thị xã An Khê, Gia Lai và tiêu xài hết số tiền bán xe. Ngày 06/02/2023, anh Siu B đã trình báo sự việc đến cơ quan Công an. Ngày 09/02/2023, vợ chồng chị H không liên lạc được với A nên đã trình báo đến Công an và giao nộp xe mô tô biển kiểm soát 81D1-255.xx mua của Nguyễn N. P. A. Ngày 14/02/2023, Nguyễn N. P. A đã đến Công an thị xã AP đầu thú.
Tại Kết luận định giá số 03/KL-HĐĐGTS ngày 17/02/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự thị xã AP kết luận xe mô tô biển kiểm soát 81D1-255.xx nhãn hiệu Honda Wave Alpha trị giá 14.500.000 đồng (mười bốn triệu năm trăm nghìn đồng);
Vật chứng vụ án:
- 01 (một) xe mô tô biển kiểm soát 61G1-180xx nhãn hiệu Yamaha Sirius màu đỏ – đen thuộc sở hữu hợp pháp của Ksor D. C.
- 01 (một) xe mô tô biển kiểm soát 81D1-255.xx nhãn hiệu Honda Wave Alpha màu trắng – đen – bạc thuộc sở hữu hợp pháp của anh Siu B.
Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra Công an huyện Phú Thiện và Cơ quan điều tra Công an thị xã AP, Gia Lai đã trả lại các vật chứng nêu trên cho chủ sở hữu hợp pháp.
Về trách nhiệm dân sự: Những người bị hại và người liên quan anh Đàm Văn S không yêu cầu bị cáo Nguyễn N. P. A bồi thường. Vợ chồng anh Đinh N và chị H yêu cầu bị cáo hoàn trả lại số tiền 4.500.000 đồng, hiện bị cáo chưa bồi thường cho vợ chồng anh Đinh N và chị H.
Tại bản Cáo trạng số 14/CT-VKS ngày 19 tháng 5 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân Nguyễn N. P. A về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 175 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã AP, tỉnh Gia Lai giữ nguyên cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo Nguyễn N. P. A về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.
Đề nghị HĐXX áp dụng điểm g khoản 2 Điều 175; điểm s khoản 1,2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.
Đề nghị HĐXX: Xử phạt bị cáo Nguyễn N. P. A từ 04 năm 06 tháng đến 05 năm tù.
Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 584, 585, 586, 589 của Bộ luật dân sự: Điều 48 của Bộ luật Hình sự. Buộc bị cáo Nguyễn N. P. A phải bồi thường Đinh N và chị H số tiền 4.500.000 đồng.
Bị cáo không có ý kiến tranh luận gì khác.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị hại và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan; phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, làm rõ tại phiên tòa. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở xác định: Vào ngày 15/12/2022 tại bôn Mi Hoan, xã Ia Hiao, huyện Phú Thiện, tỉnh Gia Lai, bị cáo Nguyễn N. P. A mượn xe mô tô biển kiểm soát 61G1-180xx nhãn hiệu Yamaha Sirius của anh Ksor D. C trị giá 4.500.000 đồng rồi cầm cố cho anh Đàm Văn S tại bôn Rưng Ma Đoan, xã Ia Rbol, AP với số tiền 1.500.000 đồng để trừ vào tiền chơi bida, A hẹn đến 19 giờ cùng ngày sẽ quay lại lấy xe và trả tiền cho anh S nhưng sau đó, A quay về nhà anh Siu B và không quay lại chuộc xe mô tô của anh Ksor D. C. Ngày 28/12/2022 tại bôn Rưng Ma Đoan, xã Ia Rbol, thị xã AP, Gia Lai, Nguyễn N. P. A mượn xe mô tô biển kiểm soát 81D1-255.xx nhãn hiệu Honda Wave Alpha của anh Siu B trị giá 14.500.000 đồng rồi bán cho vợ chồng Đinh N và chị H tại xã Kong Chiêng, huyện Mang Yang, Gia Lai lấy số tiền 4.500.000 đồng. Tổng giá trị tài sản bị cáo chiếm đoạt là: 19.000.000 đồng.
Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi chiếm đoạt bằng thủ đoạn mượn tài sản của người khác rồi dùng thủ đoạn bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo vẫn cố tình thực hiện. Xét hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu tới tình hình trật tự trị an xã hội. Bị cáo đã bị kết án, bị áp dụng tình tiết tăng nặng “tái phạm” chưa được xóa án tích nhưng vẫn tiếp tục phạm tội do cố ý. Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản thuộc trường hợp “Tái phạm nguy hiểm” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 175 Bộ luật Hình sự. Viện kiểm sát nhân dân thị xã AP, tỉnh Gia Lai đã truy tố bị cáo theo tội danh và điều luật như trên là có cơ sở, đúng người, đúng tội.
[2] Xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thì thấy rằng: Bị cáo có 01 tiền án: Ngày 17/5/2018 bị Tòa án nhân dân huyện Chư Pưh, Gia Lai xử phạt 16 tháng tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo Bản án số 16/2018/HSST. Ngày 23/9/2020, bị cáo chấp hành xong án phạt tù nhưng chưa nộp tiền thu lợi bất chính với số tiền 1.200.000 đồng nên chưa được xóa án tích; bị cáo có nhân thân xấu: Ngày 14/11/2016 bị Tòa án nhân dân huyện Kbang, tỉnh Gia Lai xử phạt 15 tháng tù về tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo Bản án số 32/2016/HSST; ngày 29/3/2018 bị Tòa án nhân dân huyện Phú Thiện, Gia Lai xử phạt 18 tháng tù về tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo Bản án số 13/2028/HSST. Bị cáo có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là phạm tội 02 lần trở lên nên áp dụng điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Từ giai đoạn điều tra và tại phiên tòa, bị cáo luôn thành khẩn khai báo. Sau khi thực hiện hành vi phạm tội thì bị cáo ra đầu thú. Các tình tiết giảm nhẹ TNHS nói trên quy định tại các điểm s khoản 1,2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, cần xem xét cho bị cáo khi quyết định hình phạt.
[3] Căn cứ tính chất, mức độ phạm tội, nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ TNHS của bị cáo, HĐXX xét thấy rằng đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là có căn cứ nên cần thiết phải xử phạt bị cáo mức hình phạt nghiêm khắc mới đủ tác dụng răn đe, giáo dục và làm tốt công tác phòng ngừa chung tại địa phương.
[4] Về trách nhiệm dân sự: Những người bị hại anh Ksor Diêu và anh Siu B không yêu cầu bị cáo Nguyễn N. P. A bồi thường; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Đàm Văn S không yêu cầu bị cáo phải trả lại số tiền chơi bi da còn nợ là 1.500.000 đồng nên HĐXX không xét đến. Vợ chồng anh Đinh N và chị H yêu cầu bị cáo hoàn trả lại số tiền 4.500.000 đồng, xét yêu cầu của vợ chồng anh N và chị H là có căn cứ nên buộc bị cáo phải bồi thường số tiền 4.500.000 đồng cho vợ chồng anh N và chị H.
[5] Về xử L vật chứng:
Vật chứng đã được xử L: Đối với 01 (một) xe mô tô biển kiểm soát 61G1- 180xx nhãn hiệu Yamaha Sirius màu đỏ – đen thuộc sở hữu hợp pháp của anh Ksor D. C; 01 (một) xe mô tô biển kiểm soát 81D1-255.xx nhãn hiệu Honda Wave Alpha màu trắng – đen – bạc thuộc sở hữu hợp pháp của anh Siu B. Các vật chứng trên đã được Cơ quan điều tra Công an huyện Phú Thiện và cơ quan điều tra Công an thị xã AP trả lại cho chủ sở hữu theo đúng quy định của pháp luật nên HĐXX không xét đến nữa.
[6 Đối với hành vi của anh Đàm Văn S và vợ chồng anh Đinh N, chị H, khi nhận cầm cố và mua bán xe mô tô với bị cáo Nguyễn N. P. A, những người này đều không biết đây là tài sản do A chiếm đoạt của người khác mà có nên không có căn cứ xử L.
[7] Về hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân và Kiểm sát viên: Cơ quan điều tra Công an thị xã AP, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã AP, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, tuân thủ quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không có người nào có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.
[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn N. P. A phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” Căn cứ điểm g khoản 2 Điều 175; điểm s khoản 1,2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.
Tuyên xử: - Phạt bị cáo Nguyễn N. P. A 05 (năm) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 14/02/2023.
- Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 584, 585, 586, 589 của Bộ luật dân sự; Điều 48 của Bộ luật Hình sự. Buộc bị cáo Nguyễn N. P. A phải bồi thường số tiền 4.500.000 đồng cho vợ chồng anh Đinh N và chị H.
3. Về án phí:
Căn cứ Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; các Điều 21, Điều 23, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Bị cáo Nguyễn N. P. A phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm để sung quỹ nhà nước.
4. Quyền kháng cáo: Bị cáo; bị hại và những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo đến Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai để yêu cầu xét xử phúc thẩm. Thời hạn kháng cáo là 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm 20/7/2023 đối với những người có mặt tại phiên tòa; thời hạn 15 ngày kể từ ngày trích lục bản án được tống đạt hợp lệ đối với người vắng mặt tại phiên tòa. Các bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo toàn bộ bản án; những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo đối với phần bản án liên quan đến bản thân mình.
“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hánh án dân sự, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự”.
Bản án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản số 14/2023/HS-ST
Số hiệu: | 14/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Ayun Pa - Gia Lai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 20/07/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về