Bản án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản số 09/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐƠN DƯƠNG, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 09/2023/HS-ST NGÀY 16/03/2023 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 16/3/2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đơn Dương, tỉnh Lâm Đồng, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 10/2023/HSST ngày 02/3/2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 11/2023/QĐXXST-HS ngày 3/3/2023, đối với bị cáo:

Họ và tên: Lê Thành Nh; Tên gọi khác: Không; sinh năm 2003 tại Lâm Đồng; Giới tính: Nam; Hộ khẩu thường trú: thôn NH 1, xã KĐ, huyện Đơn Dương, tỉnh Lâm Đồng; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Thiên chúa; Học vấn: Lớp 9/12; Nghề nghiệp: Sửa xe; Con ông Lê Văn T, sinh năm 1970 và con bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1970. Cả hai ở thôn NH 1, xã KĐ, huyện Đơn Dương, tỉnh Lâm Đồng; Gia đình bị cáo có 03 chị em, lớn sinh năm 1993, nhỏ sinh năm 1998. Bị cáo là con út trong gia đình; Vợ, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú tại thôn NH 1, xã KĐ, huyện Đơn Dương, tỉnh Lâm Đồng. Có mặt.

- Bị hại: Chị Trần Xuân Thảo, sinh năm 1995; nghề nghiệp: nội trợ; Hộ khẩu thường trú: Số 278, thôn NH 1, xã KĐ, huyện Đơn Dương, tỉnh Lâm Đồng; Nơi ở hiện tại: Số 208 Lê Văn Sỹ, phường 1, Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh. Có đơn xin xử vắng mặt.

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

Ông Lê Văn T, sinh năm 1970; Nghề nghiệp: Làm nông;

Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1970; Nghề nghiệp: Làm nông; Hộ khẩu thường trú: Thôn NH 1, xã KĐ, huyện Đơn Dương, tỉnh Lâm Đồng. Có mặt.

- Người làm chứng: Bà Nguyễn Thị Thu H, sinh năm 1969; Nghề nghiệp: Kinh doanh; Hộ khẩu thường trú: Số 278, Thôn NH 1, xã KĐ, huyện Đơn Dương, tỉnh Lâm Đồng. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 10 giờ 30 phút ngày 08/3/2022, chị Trần Xuân Thảo ở số 278, thôn NH 1, KĐ, Đơn Dương nhờ Lê Thành Nh hiện là thợ sửa xe tại cửa hàng nhà chị Thảo (cửa hàng xe máy Phong Hằng) nộp số tiền 90.000.000 đồng vào tài khoản cá nhân của Thảo tại ngân hàng Vietcombank chi nhánh Thạnh Mỹ, Đơn Dương và một số hồ sơ thuế vào Chi cục thuế huyện Đơn Dương thì Nh đồng ý. Sau đó bà Nguyễn Thị Thu H (mẹ chồng chị Thảo) đã đưa số tiền 90.000.000đ (của chị Thảo) và 01 túi đựng hồ sơ đóng thuế cho Nh. Trên đường đi nộp tiền cho chị Thảo thì Nh nảy sinh ý định chiếm đoạt số tiền 90.000.000đ để tiêu xài cá nhân nên Nh không nộp tiền vào tài khoản cho chị Thảo mà Nh đến Chi cục thuế để nộp hồ sơ thuế. Đến khoảng 11 giờ ngày 08/3/2022, chị Thảo gọi điện và nhắn tin cho Nh hỏi đã nộp tiền vào tài khoản chưa thì Nh nói dối là đã nộp tiền rồi nhưng do lỗi hệ thống mạng nên tiền chưa qua. Chị Thảo nhiều lần yêu cầu Nh chụp ảnh biên lai chuyển tiền gửi qua điện thoại cho chị Thảo nhưng Nh không trả lời và tắt nguồn điện thoại. Sau đó Chị Thảo đến Ngân hàng Vietcombank chi nhánh Thạnh Mỹ, Đơn Dương kiểm tra tài khoản thì không thấy Nh nộp tiền vào tài khoản của chị Thảo nên đã đến công an xã KĐ trình báo sự việc trên. Sau khi chiếm đoạt số tiền 90.000.000đ của chị Thảo, Nh trả cho bố là ông Lê Văn T số tiền 15.000.000đ đã mượn trước đó, số tiền còn lại Nh tiêu xài cá nhân và bỏ đi khỏi địa phương. Ngày 16/5/2022, Nh về nhà và cùng gia đình thỏa thuận, cam kết trả tiền cho chị Thảo, hai bên thống nhất sau khi cấn trừ nợ, Nh phải trả lại cho Thảo 80.000.000đ. Ngày 26/5/2022 ông Lê Văn T đã trả hết số tiền 80.000.000đ cho chị Thảo thay Nh, sau đó Nh về địa phương trình diện và thừa nhận hành vi chiếm đoạt số tiền 90.000.000đ của chị Thảo.

Cáo trạng số 13/CT-VKSĐD ngày 01/3/2023, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đơn Dương truy tố bị can Lê Thành Nh về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” quy định tại điểm c khoản 2 Điều 175 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên bản cáo trạng. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Lê Thành Nh về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 175; điểm b, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Lê Thành Nh từ 24 đến 30 tháng tù.

Bị cáo không khiếu nại bản cáo trạng, khai nhận: Vào ngày 08/3/2022, tại NH 1, KĐ, Đơn Dương, bà Nguyễn Thị Thu H là mẹ chồng chị Trần Xuân Thảo đưa số tiền 90.000.000đ cho bị cáo Nh để nhờ nộp tiền vào tài khoản ngân hàng cho chị Thảo nhưng do cần có tiền tiêu xài, bị cáo không nộp mà chiếm đoạt số tiền trên, khi chị Thảo gọi điện hỏi thì bị cáo nói dối là đã nộp tiền rồi nhưng do lỗi hệ thống mạng nên tiền chưa qua. Sau đó bỏ trốn và tiêu xài hết. Bị cáo không tranh luận với đại diện Viện kiểm sát.

Ông Tây, bà Hoa đồng ý cho bị cáo số tiền đã bỏ ra bồi thường cho bị hại.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Đơn Dương, Điều tra viên, Viện kiểm sát Nh dân huyện Đơn Dương, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội: Vào ngày 08/3/2022, tại NH 1, KĐ, Đơn Dương, chị Trần Xuân Thảo đưa số tiền 90.000.000đ cho Lê Thành Nh để nhờ Nh nộp tiền vào tài khoản ngân hàng cho chị Thảo nhưng Nh không nộp mà chiếm đoạt số tiền trên để tiêu xài cá nhân rồi bỏ trốn là vi phạm pháp luật.

Xét lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp lời khai của bị cáo trong giai đoạn điều tra, lời khai bị hại, người làm chứng, phù hợp với các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, đã có đủ cơ sở kết luận: Hành vi chiếm đoạt số tiền 90.000.000đ nêu trên của Lê Thành Nh đã phạm vào tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” quy định tại điểm a khoản 1 và điểm c khoản 2 Điều 175 của Bộ luật Hình sự. Cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân huyện Đơn Dương đã truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[3] Đánh giá tính chất vụ án: Xét tính chất, mức độ do hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ. Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý, bị cáo Nh biết việc lợi dụng sự tin tưởng của chị Trần Xuân Thảo đưa số tiền 90.000.000đ cho bị cáo để nhờ nộp tiền vào tài khoản ngân hàng nhưng bị cáo không nộp mà chiếm đoạt số tiền trên để tiêu xài cá nhân là vi phạm pháp luật.

[4] Tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ:

Tình tiết tăng nặng: bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng.

Tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đã tác động gia đình bồi thường thiệt hại, nên được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ cho bị cáo.

[5] Về quyết định hình phạt: Bị cáo thực hiện với lỗi cố ý, số tiền chiếm đoạt tương đối lớn. Vì vậy, cần phải xử phạt bị cáo mức án tương xứng với hành vi phạm tội, cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để bị cáo có thời gian cải tạo, đồng thời nhằm đảm bảo đấu tranh và phòng ngừa chung.

[6] Về vật chứng:

Đối với 01 USB màu đen, đã cũ, trên thân USB có dòng chữ số D33193, dung lượng 1,90GB, bên trong USB có chứa đoạn video quay lại hình ảnh giao nhận tiền cho bị cáoLê Thành Nh, độ dài của video là 05 phút 02 giây. USB đã được đưa vào hồ sơ vụ án nên không đề cập đến.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra, bị cáo và gia đình đã bồi thường cho bị hại số tiền 90.000.000đ, sau khi nhận tiền bồi thường bị hại Trần Xuân Thảo không có yêu cầu gì thêm nên không xem xét.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Lê Thành Nh phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.

Áp dụng điểm a khoản 1 và điểm c khoản 2 Điều 175; điểm b, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Lê Thành Nh 24 (Hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

2. Về án phí: Áp dụng Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Buộc bị cáo Lê Thành Nh phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo, người có quyền và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm. Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

31
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản số 09/2023/HS-ST

Số hiệu:09/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đơn Dương - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/03/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về