Bản án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản số 08/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚC THỌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 08/2023/HS-ST NGÀY 09/02/2023 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 09 tháng 02 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phúc Thọ, Thành phố Hà Nội, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 75/2022/TLST- HS ngày 30 tháng 11 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 02/2022/QĐXXST - HS ngày 05 tháng 01 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 01/2023/HSST-QĐ ngày 06/01/2023, đối với bị cáo:

Lê Văn Q1, sinh năm 1994 tại xã Đ, thị xã S, thành phố Hà Nội; nơi thường trú: Thôn Hưng Thịnh, xã Đ, thị xã S, thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 9; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn N và bà Lê Thị Thu Hà; chưa có vợ và 01 con; Tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 08/11/2016, bị Công an đồn Đ, thị xã S xử phạt hành chính về hành vi đánh nhau, xử phạt 750.000đồng (đã nộp phạt ngày 08/11/2016). Bị cáo tại ngoại “có mặt”

Ng đơn dân sự: Công ty cổ phần G

Địa chỉ: Tòa nhà VTV, số 8 đường P, phường M, quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội. Người đại diện theo pháp luật: Ông Phạm Hồng Q2, Tổng Giám đốc. Người đại diện theo ủy quyền: Ông Lê Việt H, Chuyên viên Pháp chế. “có đơn xin xử vắng mặt”

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Lê Văn N, sinh năm 1961 Địa chỉ: Thôn Hưng Thịnh, xã Đ, thị xã S, thành phố Hà Nội. “có mặt” 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Từ tháng 7/2020, Lê Văn Q1 là nhân viên hợp đồng dịch vụ giao hàng (shipper) của Công ty cổ phần G, địa điểm kinh doanh số 02 (kho hàng), tại tổ dân phố số 02, thị trấn Phúc Thọ, huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội. Hàng ngày, Q1 có nhiệm vụ nhận hàng tại kho hàng của Công ty (đơn hàng của người gửi) mang đến giao cho người nhận và thu hộ tiền từ người nhận. Cuối ngày, Q1 phải quay lại kho hàng của Công ty để chốt ca, nộp lại số tiền thu hộ tương ứng với những đơn hàng đã giao cho khách hàng để công ty quyết toán cho người gửi. Đối với những đơn hàng không chuyển được cho người nhận, sẽ nộp lại kho hàng của công ty và tiếp tục giao hàng vào ca sau. Quá trình giao hàng, Q1 đã chiếm đoạt 03 đơn hàng của Công ty, cụ thể:

Đơn hàng thứ nhất, có thông tin: Mã số: 599889670, người gửi: Hoàng Long Phát, địa chỉ: Khu du lịch BRC, phường Trường Thạnh, quận 9, thành phố Hồ Chí Minh, số điện thoại: 0965483X đến người nhận: Khuất Duy Ng, địa chỉ: thôn Trạch Lôi, xã Trạch Mỹ Lộc, huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội. Loại hàng giao: Tranh phong thuỷ, trị giá: 4.200.000đồng (bốn triệu hai trăm nghìn đồng). Ngày 04/01/2021, Q1 nhận hàng từ kho hàng của Công ty, giao hàng thành công cho anh Ng. Anh Ng đã thanh toán đủ số tiền 4.200.000đồng cho Q1. Sau khi nhận được tiền của anh Ng, Q1 nảy sinh ý định chiếm đoạt số tiền này, bằng cách cập nhật trên hệ thống (cập nhập qua phần mềm nội bộ của Công ty được cài đặt trên điện thoại) là khách hẹn giao hàng vào ngày khác; đồng thời, Q1 lấy 01 hộp giấy và nhét giấy vụn, ni lông vào bên trong rồi mang về kho của Công ty, in mã vận đơn của đơn hàng tranh phong thủy, dán lên kiện hàng giả để tránh bị công ty phát hiện (khi quét mã sẽ hiện toàn bộ quá trình vận chuyển đơn hàng). Ngày 10/01/2021, Q1 cập nhập trạng thái không giao được hàng. Công ty cổ phần G hoàn trả đơn vị gửi hàng (là kiện hàng giả mạo). Sau khi nhận lại kiện hàng, người gửi Hoàng Long Phát thông báo đến Công ty cổ phần G việc đã nhận lại được đơn hàng, nhưng trong kiện hàng không còn hàng (tranh phong thủy) mà phía người gửi đã gửi. Ngày 17/02/2022, Công ty cổ phần G đã bồi thường cho người gửi hàng bằng cách chuyển số tiền 4.035.000đồng (sau khi đã trừ 165.000đồng phí chuyển khoản ngân hàng và tiền lệ phí chuyển trả hàng) đến số tài khoản người gửi hàng Hoàng Long Phát Đơn hàng thứ hai, có thông tin: Mã số: 837115859, người gửi: Hoàng Hải, địa chỉ: số 247, đường Hoàng Hoa Thám, phường 13, quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh, số điện thoại: 0971606022 chuyển đến người nhận: 12 sữa cô Nhung, địa chỉ: thôn 1, Vĩnh Thuận, xã Vân Nam, huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội. Loại hàng giao: Sữa, trị giá 11.040.000 đồng (mười một triệu không trăm bốn mươi nghìn đồng). Ngày 31/01/2021, Lê Văn Q1 nhận hàng từ Công ty, giao hàng thành công cho chị Nguyễn Thị Nhung. Chị Nhung đã thanh toán đủ số tiền 11.040.000đồng. Sau khi nhận được tiền của chị Nhung, Q1 nảy sinh ý định chiếm đoạt luôn số tiền này. Để che giấu hành vi của mình, Q1 cập nhập trên hệ thống trạng thái khách hẹn giao hàng vào ngày khác, sau đó về in mã vận đơn của đơn hàng này dán đè sang một kiện hàng khác (không rõ là đơn hàng gì). Đến ngày 09/02/2021, Công ty G kiểm tra kho hàng đối với những đơn hàng có giá trị cao nhưng chưa giao được thì phát hiện ra hành vi gian rối của Lê Văn Q1. Công ty cổ phần G đã bồi thường số tiền 11.040.000 đồng cho người gửi hàng là anh Hoàng Hải.

Đơn hàng thứ ba, có thông tin: Mã số: 596299926, người gửi Lead_Digital, địa chỉ: Toà nhà Loyal Office Building, số 151, đường Võ Thị Sáu, phường 6, quận 3, thành phố Hồ Chí Minh, số điện thoại: 0346X873 đến người nhận: Nguyễn Trọng Hưng, địa chỉ: Cụm 1, đường Lạc trị, huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội; loại hàng giao: điện thoại Xiaomi POCO X3 NFC 6GB/64GB, trị giá 4.592.000đồng (bốn triệu năm trăm chín mươi hai nghìn đồng). Khoảng đầu tháng 02/2021, Q1 đã nhận đơn hàng này từ Công ty và giao hàng thành công cho anh Hưng. Anh Hưng thanh toán cho Q1 số tiền 4.592.000đồng. Sau khi nhận được tiền của anh Hưng, Q1 nảy ý định chiếm đoạt số tiền này. Để che dấu hành vi của mình, Q1 nhiều lần cập nhập trên hệ thống khách hẹn giao hàng vào ngày khác và làm giả hàng hoá (tương tự như đơn hàng tranh phong thủy). Đến ngày 09/2/2021, (cùng ngày kiểm tra kho hàng) Công ty G đã phát hiện ra hành vi gian rối của Lê Văn Q1, kiểm tra bên trong hộp đựng hàng thì chỉ có túi ni lông. Công ty G đã bồi thường cho người gửi hàng Lead_Digital số tiền 4.592.000đồng.

Tổng trị giá của 03 đơn hàng mà Lê Văn Q1 đã chiếm đoạt của Công ty cổ phần G là 19.832.000đồng (mười chín triệu tám trăm ba mươi hai nghìn đồng).

Quá trình giải quyết vụ án, ông Lê Văn N (là bố của Lê Văn Q1 đã tự nguyện bồi thường cho Công ty cổ phần G số tiền 19.832.000đồng (mười chín triệu tám trăm ba mươi hai nghìn đồng).

Tại bản cáo trạng số 71/CT-VKS ngày 24/11/2022 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Phúc Thọ, Thành phố Hà Nội truy tố Lê Văn Q1 về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 175 của Bộ luật Hình sự.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Phúc Thọ thực hành quyền công tố tại phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 175; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt: Lê Văn Q1 12-15 tháng tù về tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Không phạt hình phạt bổ sung. Ngoài ra còn đề nghị về án phí.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Phúc Thọ, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Phúc Thọ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến, không khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Tại phiên tòa bị cáo Lê Văn Q1 khai: Trong khoảng thời gian từ tháng 01/2021 đến đầu tháng 02/2021, Q1 là nhân viên hợp đồng dịch vụ giao hàng (hay gọi là shipper) của Công ty cổ phần G, làm việc tại địa điểm kinh doanh số 02 (kho hàng), thuộc tổ dân phố số 2, thị trấn Phúc Thọ, huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội. Q1 nhận đơn hàng từ Công ty, giao hàng thành công và nhận đủ tiền của khách. Sau khi nhận được tiền của khách mua hàng, Q1 nảy sinh ý định chiếm đoạt luôn số tiền đó nên đã dùng thủ đoạn gian dối bằng cách làm đơn hàng giả hoặc in mã vận đơn của đơn hàng đã giao thành công dán đè lên một đơn hàng khác để chiếm đoạt 03 đơn hàng của Công ty cổ phần G, từng đơn hàng có giá trị là 4.200.000đồng, 11.040.000đồng và 4.592.000đồng, tổng cộng 19.832.000đồng.

Xét lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai nguyên đơn dân sự, với người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử thấy đủ căn cứ kết luận: Trong khoảng thời gian từ tháng 01/2021 đến đầu tháng 02/2021, Q1 là nhân viên hợp đồng dịch vụ giao hàng (hay gọi là shipper) của Công ty cổ phần G, làm việc tại địa điểm kinh doanh số 02 (kho hàng), thuộc tổ dân phố số 2, thị trấn Phúc Thọ, huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội. Q1 nhận đơn hàng từ Công ty, giao hàng thành công và nhận đủ tiền của khách. Sau khi nhận được tiền của khách mua hàng, Q1 nảy sinh ý định chiếm đoạt luôn số tiền đó nên đã dùng thủ đoạn gian dối bằng cách làm đơn hàng giả hoặc in mã vận đơn của đơn hàng đã giao thành công dán đè lên một đơn hàng khác để chiếm đoạt 03 đơn hàng của Công ty cổ phần G, từng đơn hàng có giá trị là 4.200.000đồng, 11.040.000đồng và 4.592.000đồng, tổng cộng 19.832.000đồng.

Hành vi phạm tội của bị cáo nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất an ninh, trật tự xã hội. Ngày 08/11/2016, Q1 bị Công an đồn Đ, thị xã S xử phạt hành chính về hành vi đánh nhau, bị cáo phạm tội 2 lần trở lên, vì vậy cần áp dụng hình phạt nghiêm, cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt, Tòa án cũng xem xét: Bị cáo thành khẩn khai báo, đã bồi thường thiệt hại, nguyên đơn dân sự xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt.

[3]. Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo không có nghề nghiệp, không có tài sản nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[4]. Về trách nhiệm dân sự: Ng đơn dân sự đã được bồi thường toàn bộ thiệt hại và không yêu cầu gì khác nên Tòa án không xem xét.

Quá trình điều tra, ông Lê Văn N (bố đẻ bị cáo) đã bồi thường cho Công ty cổ phần G số tiền 19.832.000đồng. Tại phiên tòa, cả ông N và bị cáo đều xác nhận: Toàn bộ số tiền mà ông N bồi thường cho Công ty cổ phần G là tiền của bị cáo đi làm thuê mà có, do dịch covid Q1 không về nhà được nên gửi tiền về nhờ ông N bồi thường hộ, nên không xem xét việc Q phải hoàn trả số tiền này cho ông N.

[5]. Về đề nghị của Kiểm sát viên đối với vụ án: Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử tuyên phạt bị cáo về mức hình phạt là phù hợp với quy định của pháp luật.

[6]. Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ khoản 1 Điều 175; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật Hình sự Xử phạt: Lê Văn Q1 09 (chín) tháng tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày thi hành án.

2. Về án phí: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo Lê Văn Q1 phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

3. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Bị cáo, nguyên đơn dân sự có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người vắng mặt tại phiên tòa thời hạn kháng cáo kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

24
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản số 08/2023/HS-ST

Số hiệu:08/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phúc Thọ - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/02/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về