TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 236/2021/HS-PT NGÀY 08/04/2021 VỀ TỘI HỦY HOẠI TÀI SẢN
Ngày 08 tháng 4 năm 2021 tạiTòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số193/2021/TLPT- HS ngày 19 tháng 02 năm 2021 đối với bị cáo Nguyễn Thế H do có kháng cáo của bị hại đối với bản án hình sự sơ thẩm số 224/2020/HS-ST ngày 24 tháng 12 năm 2020 của Tòa án nhân dân quận Ba Đình, thành phố Hà Nội.
- Bị cáo bị kháng cáo:
NGUYỄN THẾ H, sinh năm: 1964; giới tính: Nam; ĐKNKTT và nơi ở: phường T, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: Không; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ văn hóa: 7/10; con ông: Nguyễn Văn M(đã chết) và bà: Nguyễn Thị S(đã chết); vợ: Hoàng Thị Bích N có 02 con sinh năm 1989 và 1990; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Năm 1982 bị xử phạt hành chính về hành vi trộm cắp tài sản. Năm 1992 bị xử phạt hành chính về hành vi đánh bạc; bị cáo tại ngoại; có mặt.
-Bị hại có kháng cáo:
1) Bà Đàm Thị T, sinh năm 1945;
2) Chị Nguyễn Thị L, sinh năm 1974;
3) Anh Nguyễn Hoàng A, sinh năm 1983;
Cùng trú tại: quận B, thành phố Hà Nội; có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Gia đình bà Đàm Thị T và ông Nguyễn Văn K quản lý và sử dụng nhà đất từ năm 1970. Trong quá trình sử dụng, gia đình ông K đã lấn chiếm đất ven sông Hồng (hướng phía Đông và phía Nam) liền kề với thửa đất của gia đình để làm vườn.
Năm 1994, ông K đã chuyển nhượng cho cháu ruột của mình là Nguyễn Thế H 50m2 đất vườn hướng phía Nam, thỏa thuận lối đi 1,4 nhưng việc mua bán bằng giấy viết tay, không có xác nhận của cơ quan có thẩm quyền, không có bản vẽ thể hiện lối đi 1,4m.
Do việc mua bán 50m2 đất vườn nêu trên không có bản sơ họa nên quá trình sử dụng, gia đình bà Đàm Thị T có xảy ra tranh chấp với gia đình Nguyễn Thế H về lối đi 1,4m ghi trong giấy bán đất. Từ năm 2016-2018, gia đình Nguyễn Thế H nhiều lần gửi đơn khiếu nại ra UBND phường Phúc Xá và UBND quận Ba Đình về tranh chấp liên quan đến diện tích đất đã mua của gia đình bà Đàm Thị T, trong đó có nội dung đúng và chưa đúng. Mặc dù đã được chính quyền các cấp trả lời đơn nhiều lần, tuy nhiên gia đình Nguyễn Thế H không chấp nhận kết quả giải quyết vì cho rằng không thỏa đáng.
Ngày 20/08/2018, UBND phường Phúc Xá tổ chức cưỡng chế, tháo dỡ phần xây dựng lán tạm lấn chiếm đất công của gia đình ông Nguyễn Văn K và bà Đàm Thị T. Khi Tổ công tác đang tháo dỡ, Nguyễn Thế H cùng một số đối tượng mặc áo thương binh đến yêu cầu lực lượng chức năng phá dỡ cả bức tường rào nhà bà T, vì cho rằng bức tường này xây trên diện tích lối đi 1,4m mà H đã mua của ông K. Sau đó, H đã cùng một nam thanh niên (chưa xác định lai lịch) dùng máy khoan phá 1m thường rào nhà bà T rồi bỏ đi.
Do thấy Tổ công tác của phường Phúc Xá không phá dỡ bức tường rào mà H cho rằng bà T đã xây trên đất của H, nên khoảng 7h00’ ngày 23/08/2018, H cùng 01 nam thanh niên khoảng 35 tuổi, cao 1m68, mặc áo xanh cốm, dùng máy khoan, cắt phá đổ toàn bộ bức tường rào có kích thước dài 7m, cao 3m của nhà bà T (phần tường gạch được ốp đá bên ngoài cao 1,5m, phần song sắt cao 1,5m. là bức tường xây dựng trên diện tích đất chưa được cấp sổ đỏ và chưa được cấp phép xây dựng).
Xác minh, thu thập tài liệu tại UBND phường Phúc Xá được biết:
- Vợ chồng Nguyễn Thế H và Hoàng Thị Bích N đòi lại 1,4m lối đi đã mua của ông Nguyễn Văn K từ năm 1994 bằng giấy tờ viết tay, không có chứng nhận của cơ quan có thẩm quyền là không đủ cơ sở pháp lý, nên việc khiếu nại của vợ chồng ông H, bà N là không đúng.
- Về diện tích sử dụng đất của nhà bà Đàm Thị T là 205,5m2 (theo đo đạc từ tháng 6/2016) được UBND phường công nhận, gia đình bà T chỉ đóng thuế phi nông nghiệp là 200m2, do gia đình tự kê khai, bà N có khiếu nại về nội dung này. Theo quy định tại điểm c khoản 3 Điều 4 Luật Thuế đất phi nông nghiệp năm 2012 “Việc nộp thuế đất phi nông nghiệp không phải là căn cứ để giải quyết tranh chấp về quyền sử dụng đất” nên việc khiếu nại của bà N là không đúng.
- Năm 1994 ông K có bán lại cho Nguyễn Thế H hai mảnh đất, mảnh vườn trên là 20m2, mảnh vườn dưới là 30m2. Sau đó đến năm 1997 ông H có bán lại mảnh đất 20m2 cho bà Đào Thị X.
- Bức tường bị H cùng một số đối tượng thương binh (chưa rõ lai lịch, địa chỉ), dùng máy khoan, cắt phá đổ toàn bộ là của nhà bà Đàm Thị T.
Theo kết luận định giá số 99 ngày 22/09/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Ba Đình kết luận: Bức tường có giá 25.000.000đ (Hai mươi năm triệu đồng).
Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Thế H đã khai nguyên nhân dùng khoan để phá tường rào nhà bà T là do H cho rằng bức tường này được xây trên diện tích 1,4m lối đi mà ông K đã bán cho H từ năm 1994, do chính quyền không cưỡng chế tháo dỡ nên H đã tự tháo dỡ. Lời khai nhận tội của H phù hợp với lời khai của bị hại, người liên quan, hiện trường và các tài liệu khác có trong hồ sơ.
Quá trình điều tra, bà Đàm Thị T khai bức tường mà H phá là của gia đình bà xây dựng, bà T cũng thừa nhận bức tường xây dựng trên diện tích đất chưa cấp sổ đổ và chưa được cấp phép xây dựng.
Quá trình điều tra, ngày 20/11/2018, gia đình Nguyễn Thế H đã nộp cho Cơ quan điều tra 25 triệu đồng để bồi thường cho gia đình bà Đàm Thị T.
Tuy nhiên, do bà Đàm Thị T không nhận số tiền trên nên ngày 21/4/2019, Cơ quan điều tra đã trao trả 25.000.000 đồng cho gia đình Nguyễn Thế H.
Đối với nam thanh niên khoảng 35 tuổi cao 1m68 mặc áo xanh cốm do Nguyễn Thế H thuê ở chợ người về để phá dỡ hàng rào nhà bà T và những đối tượng mặc áo thương binh màu xanh, hiện Cơ quan điều tra không xác minh được lý lịch và xét hành vi chưa đến mức vi phạm pháp luật hình sự nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý.
Với nội dung trên, tại bản án hình sự sơ thẩm số 224/2020/HSST ngày 24/12/2020 Tòa án nhân dân quận Ba Đình, thành phố Hà Nội đã quyết định:
- Áp dụng: Khoản 1 điều 178; điểm b,i,s khỏan 1 khoản 2 Điều 51;điều 65 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt: Nguyễn Thế H 15(mười lăm)tháng tù về tội hủy hoại tài sản, nhưng cho hưởng án treo, hạn thử thách là 30(ba mươi) tháng kể từ ngày tuyên án. Giao bị cáo về ủy ban nhân dân phường Trúc Bạch, quận Ba Đình thành phố Hà Nội trong thời gian thử thách.
Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng điều 46, 48 Bộ luật hình sự, các Điều 585, 589 Bộ luật dân sự:
Buộc Nguyễn Thế H phải bồi thường cho bà Đàm Thị T số tiền 25.000.000 đồng.
Ngoài ra bản án còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 08/01/2021 bị hại là bà Đàm Thị T có đơn kháng cáo toàn bộ bản án của tòa án nhân dân quận Ba Đình, đề nghị hủy bản án vì có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm và phải đưa hai con bà là chị L và anh A tham gia với tư cách là bị hại không phải người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Bà T giữ nguyên yêu cầu kháng cáo đề nghị hủy bản án sơ thẩm xem xét ngoài tội hủy hoại tài sản bị cáo còn phạm tội chống người thi hành công vụ và gây rối trật tự công cộng. Đề nghị đưa hai con bà vào tham gia với tư cách là bị hại vì bức tường vợ chồng bà xây từ năm 1970 nhưng sau này hai con bà đã bỏ tiền ra xây sửa lại bức tường nên cũng có quyền lợi trong đó. Về phần bồi thường dân sự bà không có ý kiến gì, đồng ý như bản án sơ thẩm.
Chị Nguyễn Thị L và anh Nguyễn Hoàng A có mặt tại phiên tòa cũng xác nhận có bỏ tiền ra xây và tu bổ bức tường. Chị L, anh A cũng đề nghị tham gia vụ án với tư cách bị hại, không đồng ý với quyết định của bản án sơ thẩm và đề nghị tòa phúc thẩm giải quyết yêu cầu như đơn kháng cáo của bà Thược.
Bị cáo đề nghị tòa án không chấp nhận yêu cầu của bị hại và giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Đại diện viện kiểm sát thành phố Hà Nội có quan điểm:
Tòa án sơ thẩm đã xét xử bị cáo Nguyễn Thế H về tội hủy hoại tài sản theo khoản 1điều 178 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật. Không có căn cứ xác định bị cáo có hành vi chống người thi hành công vụ và gây rối trật tự công cộng. Có căn cứ để đưa chị Nguyễn Thị L và anh Nguyễn Hoàng A tham gia tố tụng với tư cách là bị hại. Chị L và anh A cũng có yêu cầu như nội dung kháng cáo của bà T nên đề nghị giải quyết luôn tại cấp phúc thẩm, không cần thiết phải hủy án sơ thẩm. Vì vậy đề nghị hội đồng xét xử chấp nhận một phần kháng cáo của bị hại về việc đưa chị L và anh A tham gia tố tụng với tư cách là bị hại và buộc bị cáo phải bồi thường cho bà T, chị L và anh A.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
Về hình thức: Kháng cáo của bị hại trong thời hạn quy định của pháp luật nên được chấp nhận để xem xét theo trình tự phúc thẩm.
Xét yêu cầu kháng cáo của bị hại bà Đàm Thị T hội đồng xét xử thấy rằng:
Về tố tụng: Các tài liệu có trong hồ sơ và tại phiên tòa phúc thẩm bà T, chị L và anh A đều khẳng định bức tường bị cáo H phá là tài sản chung của gia đình. Chị L và anh A cũng bỏ tiền ra xây và tu bổ. Đến nay ông K đã mất, tài sản trên thuộc bà T, chị L và anh A. Vì vậy cần chấp nhận yêu cầu của bà T, xác định chị L và anh A tham gia vụ án với tư cách là bị hại.
Bà T có kháng cáo, tại phiên tòa phúc thẩm chị L và anh A cũng đề nghị tòa án giải quyết yêu cầu của anh, chị như nội dung yêu cầu kháng cáo của bà T. Vì vậy không cần thiết phải hủy bản án sơ thẩm, vẫn đảm bảo quyền kháng cáo cũng như quyền lợi của chị L và anh A tại phiên tòa phúc thẩm.
Về nội dung:
Căn cứ lời khai bị cáo, bị hại và các tài liệu có trong hồ sơ. Có đủ cơ sở kết luận tòa án nhân dân quận Ba Đình đã xét xử bị cáo Nguyễn Thế H về tội “Hủy hoại tài sản” theo khoản 1 điều 178 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật. Hình phạt 15 tháng tù nhưng cho hưởng án treo là phù hợp với tính chất hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của bị cáo.
Tòa án sơ thẩm cũng đã nhận định không đủ căn cứ để xét xử bị cáo về các tội “Chống người thi hành công vụ” và “Gây rối trật tự công cộng”. Nhận định này của tòa án sơ thẩm là đúng, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ.
Tại phiên tòa phúc thẩm bà Đàm Thị T, chị Nguyễn Thị L và anh Nguyễn Hoàng A yêu cầu hủy bản án sơ thẩm để xem xét thêm tội danh chống người thi hành công vụ và gây rối trật tự công cộng đối với bị cáo H nhưng bà T, chị L, anh A không đưa ra được tài liệu, bằng chứng gì mới nên không có căn cứ để xem xét yêu cầu này.
Vì vậy chấp nhận một phần kháng cáo của bị hại Đỗ Thị T về việc đưa chị L và anh A tham gia vụ án với tư cách là bị hại. Không chấp nhận kháng cáo của bà T, chị L, anh A về việc hủy bản án sơ thẩm, xem xét thêm tội danh đối với bị cáo H.
Về trách nhiệm dân sự: Buộc Nguyễn Thế H phải bồi thường cho bà Đàm Thị T, chị Nguyễn Thị L và anh Nguyễn Hoàng A số tiền 25.000.000(hai lăm triệu) đồng.
Bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm b khoản 1 điều 355 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH/14 ngày 30/12/2016 về án lệ phí tòa án.
- Chấp nhận một phần kháng cáo của bị hại Đàm Thị T. Không chấp nhận kháng cáo của bị hại chị Nguyễn Thị L và anh Nguyễn Hoàng A. Sửa bản án hình sự sơ thẩm số 224/2020/HSST ngày 24/12/2020 củaTòa án nhân dân quận Ba Đình, thành phố Hà Nội về xác định tư cách người tham gia tố tụng và bồi thường dân sự.
+ Áp dụng: Khoản 1 điều 178; điểm b,i,s khoản 1 khoản 2 điều 51; điều 65 Bộ luật hình sự.
Xử phạt : Nguyễn Thế H 15(mười lăm) tháng tù về tội“Hủy hoại tài sản” nhưng cho hưởngán treo. Thời gian thử thách là 30(ba mươi) tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Giao bị cáo về ủy ban nhân dân phường Trúc Bạch, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.
Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản ánđã cho hưởng án treo.
Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.
Về trách nhiệm dân sự: Buộc Nguyễn Thế H phải bồi thường cho bà Đàm Thị T, chị Nguyễn Thị L và anh Nguyễn Hoàng A số tiền 25.000.000(hai lăm triệu) đồng.
- Bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
- Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án
Bản án về tội hủy hoại tài sản số 236/2021/HS-PT
Số hiệu: | 236/2021/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 08/04/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về