Bản án về tội hủy hoại rừng số 14/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TB, TỈNH QN

BN ÁN 14/2022/HS-ST NGÀY 21/07/2022 VỀ TỘI HY HOẠI RỪNG

Trong ngày 21 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện TB, tỉnh QN, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 23/2022/TLST - HS ngày 06 tháng 6 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:

23/2022/XXST - HS ngày 06 tháng 7 năm 2022 đối với bị cáo: HVC, sinh ngày 15 tháng 7 năm 1955, tại thôn T Ô, xã TX, huyện TB, tỉnh QN.

Nơi cư trú: Thôn T Ô, xã TX, huyện TB, tỉnh QN; nghề nghiệp: Nông; trình độ văn hóa: 5/12; dân tộc: Ca dong; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông HVR (chết) và bà HTN (chết); có vợ HTS và 04 người con, con lớn nhất sinh năm 1986, con nhỏ nhất sinh năm 2002; tiền án: Không; tiền sự: Không; nhân thân: Tốt; Bị cáo được áp dụng lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú ngày 06 tháng 6 năm 2022, “vắng mặt”.

- Người bào chữa cho bị cáo: Bà NTD, trợ giúp viên pháp lý công tác tại Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Quảng Ngãi bào chữa cho bị cáo HVC, “có mặt”.

- Nguyên đơn dân sự: Ban Quản lý rừng phòng hộ tỉnh QN do ông TKN - Giám đốc, là người đại diện theo pháp luật. Địa chỉ: Hẻm 173 Ngô Sỹ Liên, phường TP, TP QN, tỉnh QN; ủy quyền cho ông VCT - Trạm trưởng, Trạm Quản lý bảo vệ rừng khu Tây huyện TB, QN. Địa chỉ: Xã T P, huyện TB, tỉnh QN, “có mặt”.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án :

1. Bà HTP, sinh năm 1960.

2. Anh HVN, sinh năm 1960.

3. Chị HTS, sinh năm 1958.

Đu cư trú: Đội 5, thôn T Ô, xã TX, huyện TB, tỉnh QN “vắng mặt”

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng thời gian tháng 3 năm 2021 HVC, sinh 1955, hộ khẩu thường trú tại: Thôn T Ô, xã TX, huyện TB, QN đi đến địa điểm lâm phận rừng tự nhiên phòng hộ thuộc lô 6, khoảnh 3 tiểu khu 105, xã TX, huyện TB, QN, sử dụng cái rựa và rìu cán bằng gỗ để chặt hạ những cây gỗ có kích thước từ 20cm trở xuống và những cây bụi, dây leo, mục đích để làm nương rẫy trồng lúa, hoa màu. Sau khi ông C thực hiện hành vi chặt hạ cây rừng trong thời gian 03 ngày thì sau đó về nhà gọi bà vợ là S và bà P cùng con dâu là bà N lên khu vực trên để tham gia chặt phá trong thời gian 04 ngày, sau một thời gian khoảng 15 ngày sau, ông C đốt rẫy trồng lúa và hoa màu trên mảnh đất. Tổng cộng thời gian thực hiện hành vi là 07 ngày chặt phá rừng.

Hành vi của C đã xâm phạm vào các quy định của Nhà nước về khai thác và bảo vệ rừng, xâm hại đến sự ổn định và bền vững của môi trường sinh thái, đ ối tượng tác động trực tiếp là rừng phòng hộ.

- Tại Kết luận giám định số: 622/CCKL-KLGĐ, ngày 30/8/2021 của chi cục Kiểm lâm tỉnh QN Kết luận:

+ Có rừng thiệt hại tại vị trí mà Hạt kiểm lâm huyện TB xác lập biên bản kiểm tra hiện trường ngày 30/7/2021; Loại rừng bị thiệt hại là rừng tự nhiên lá rộng thường xanh nghèo kiệt (TXK).

+ Vị trí rừng bị phá thuộc lô 6, khoảnh 3, tiểu khu 105, xã TX, huyện TB, tỉnh QN (theo Tờ bản đồ diễn biến rừng năm 2020 huyện TB): Diện tích rừng bị thiệt hại là 4.029m2 (bốn nghìn không trăm hai chín mét vuông).

+ Trữ lượng rừng bị thiệt hại là 7.697m3; trong đó gỗ dưới cành là 6.574m3 và gỗ trên cành là 1.123m3.

+ Chức năng quy hoạch cho lâm nghiệp là rừng phòng hộ đầu nguồn.

+ Chủ quản lý (chủ rừng) là Ban Quản lý rừng phòng hộ tỉnh QN;

- Tại kết luận định giá tài sản số: 02/KL-HĐĐGTS, ngày 06/01/2022, kết luận: Thiệt hại về rừng là 4.029.000 đồng (bốn triệu không trăm hai mươi chín nghìn đồng).

Ti cáo trạng số: 10/CT - VKS, ngày 05 tháng 6 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện TB truy tố bị cáo C về tội “Hủy hoại rừng” theo điểm c khoản 1 Điều 243 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Tại phiên tòa kiểm sát viên thực hành quyền công tố giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm c, khoản 1 Điều 243; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017, tuyên phạt bị cáo C từ 12 đến 18 tháng tù cho hưởng án treo.

Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo C đã tự nguyện khắc phục hậu quả về giá trị rừng bị thiệt hại cho nhà nước tại cơ quan Điều tra với số tiền là 4.029.000 đồng (bốn triệu không trăm hai mươi chín nghìn đồng).

Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự, khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự cần tuyên tịch thu tiêu hủy vật chứng gồm:

- 01 (một) cái rựa dài 56cm, lưỡi rựa làm bằng kim loại, màu xám đen, ánh sáng kim, phần nhìn thấy được dài 27cm, phần rộng nhất của lưỡi rựa rộng 3,5cm, cán rựa làm bằng gỗ dài 29cm, mặt cắt ngang hình tròn, đường kính rộng 3cm, trên cán rựa có niềng 04 khoen kim loại, đuôi cán rựa bị bể vỡ kích thước (3x1)cm. Rựa đã qua sử dụng.

- 01 (một) cái rựa dài 65,3cm, lưỡi rựa làm bằng kim loại, màu xám đen, ánh sáng kim, phần nhìn thấy được dài 27,3cm, phần rộng nhất của lưỡi rựa dài 4,3cm, trên thân lưỡi rựa in chìm 03 hình ngôi sao, cán rựa làm bằng gỗ dài 38cm, mặt cắt ngang hình tròn, đường kính rộng nhất dài 2,8cm, trên thân cán rựa có niềng 05 khoen kim loại, ở khoảng giữa khoen số 2 và số 4 có chỗ bị bể vỡ kích thước (2,1x2)cm. Rựa đã qua sử dụng.

- 01 (một) cái rựa dài 65cm, lưỡi rựa làm bằng kim loại, màu xám đen, ánh sáng kim, phần nhìn thấy được dài 28,2cm, phần rộng nhất của lưỡi rựa dài 3,4cm, trên thân lưỡi rựa in chìm 03 hình ngôi sao, cán rựa làm bằng gỗ dài 36,8cm, mặt cắt ngang hình tròn, đường kính rộng nhất dài 3cm, trên thân cán rựa có niền 05 khoen kim loại, vị trí khoen lớn nhất (khoen số 1) tiếp giáp giữa cán và lưỡi rựa được chem (nem) 01 mảnh vải màu đỏ, kích thước nhìn thấy được (8x2,5)cm. Rựa đã qua sử dụng.

- 01 (một) cái rựa dài 52,5cm, lưỡi rựa làm bằng kim loại, màu xám đen, ánh sáng kim, phần nhìn thấy được dài 24,5cm, phần rộng nhất của lưỡi rựa dài 2,8cm, trên thân lưỡi rựa in chìm 03 hình ngôi sao, cán rựa làm bằng gỗ dài 28cm, mặt cắt ngang hình tròn, đường kính rộng nhất dài 2,5cm, trên thân cán rựa có nhiều niềng 03 khoen kim loại, ở khoảng giữa khoen số 2 và số 4 có chỗ bị bể vỡ kích thước (2,1x2)c m. Rựa đã qua sử dụng.

Ý kiến của người bào chữa cho bị cáo tại phiên tòa: Thống nhất với quan điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện TB, đề nghị Hội đồng xét xử vận dụng các tình tiết giảm nhẹ để cho bị cáo C được hưởng 9 đến 12 tháng tù cho hưởng án treo.

Ngưi bào chữa không có lời tranh luận, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện TB, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện TB, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ Luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa những người tham gia tố tụng không có ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Việc xét xử vắng mặt:

Bị cáo; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có đơn xin đề nghị xét xử vắng mặt (Được chính quyền địa phương xác nhận). Hội đồng xét xử xét thấy sự vắng mặt của họ không gây cản trở cho việc xét xử; Cần áp dụng điểm c, d khoản 2 Điều 290; khoản 1 Điều 292 của Bộ luật tố tụng hình sự, chấp nhận.

[3] Về chứng cứ phạm tội:

Li khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; những người làm chứng và các chứng cứ, tài liệu mà cơ quan điều tra đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để xác định:

Vào tháng 3 năm 2021 C đến rừng tự nhiên phòng hộ thuộc lô 6, khoảnh 3 tiểu khu 105, xã TX, huyện TB, tỉnh QN, sử dụng cái rựa và rìu cán bằng gỗ để chặt hạ những cây gỗ có kích thước từ 20cm trở xuống và những cây bụi, dây leo, mục đích để làm nương rẫy trồng lúa, hoa màu.

Hành vi của bị cáo đã xâm phạm các quy định của nhà nước về khai thác và bảo vệ rừng, xâm hại đến sự ổn định và bền vững của môi trường sinh thái. Viện kiểm sát nhân dân huyện Trà Bồng truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; bị cáo Hồ Văn Cảnh có đủ năng lực để chịu trách nhiệm hình sự về hành vi của mình.

[4] Về tính chất mức độ phạm tội:

Ti Kết luận giám định số: 622/CCKL-KLGĐ, ngày 30/8/2021 của chi cục Kiểm lâm tỉnh QN Kết luận: Có rừng thiệt hại tại vị trí mà Hạt kiểm lâm huyện TB xác lập biên bản kiểm tra hiện trường ngày 30/7/2021; Loại rừng bị thiệt hại là rừng tự nhiên lá rộng thường xanh nghèo kiệt (TXK). Vị trí rừng bị phá thuộc lô 6, khoảnh 3, tiểu khu 105, xã TX, huyện TB, tỉnh QN (theo Tờ bản đồ diễn biến rừng năm 2020 huyện TB): Diện tích rừng bị thiệt hại là 4.029m2 (bốn nghìn không trăm hai chín mét vuông). Trữ lượng rừng bị thiệt hại là 7.697m3; trong đó gỗ dưới cành là 6.574m3 và gỗ trên cành là 1.123m3. Chức năng quy hoạch cho lâm nghiệp là rừng phòng hộ đầu nguồn. Chủ quản lý (chủ rừng) là Ban Quản lý rừng phòng hộ tỉnh QN - Trạm quản lý bảo vệ rừng khu tây TB.

Ti kết luận định giá tài sản số: 02/KL-HĐĐGTS, ngày 06/01/2022, kết luận: Thiệt hại về rừng là 4.029.000 đồng (bốn triệu không trăm hai mươi chín nghìn đồng).

[5] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiện hình sự:

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tự nguyện khắc phục hậu quả; bị cáo là người đồng bào dân tộc thiểu số, trình độ học vấn thấp, gia đình thuộc diện hộ nghèo chỉ vì mục đích tỉa lúa phát triển kinh tế gia đình; có nhân thân tốt; nên cần xem đây là những tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 để cho bị cáo được hưởng án treo cũng vẫn đạt mục đích giáo dục, cải tạo người phạm tội và phòng ngừa chung cho xã hội.

[6] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo làm nghề nông, là người đồng bào dân tộc thiểu số sống ở vùng có điều kiện kinh tế - Xã hội đặc biệt khó khăn nên Hội đồng xét xử không áp dụng.

[7] Đề nghị của Kiểm sát viên và người bào chữa là phù hợp với nhận định của Hội Đồng xét xử nên được chấp nhận.

[8] Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa, đại diện nguyên đơn dân sự yêu cầu bị cáo bồi thường cho Nhà nước số tiền thiệt hại về rừng là 4.029.000đồng (bốn triệu không trăm hai mươi chín nghìn đồng). Trong giai đoạn điều tra bị cáo C đã tự nguyện giao nộp 4.029.000đồng, cần tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

[9] Về tang vật vụ án: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 và khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự tuyên tịch thu tiêu hủy:

- 01 (một) cái rựa dài 56cm, lưỡi rựa làm bằng kim loại, màu xám đen, ánh sáng kim, phần nhìn thấy được dài 27cm, phần rộng nhất của lưỡi rựa rộng 3,5cm, cán rựa làm bằng gỗ dài 29cm, mặt cắt ngang hình tròn, đường kính rộng 3cm, trên cán rựa có niềng 04 khoen kim loại, đuôi cán rựa bị bể vỡ kích thước (3x1)cm. Rựa đã qua sử dụng.

- 01 (một) cái rựa dài 65,3cm, lưỡi rựa làm bằng kim loại, màu xám đen, ánh sáng kim, phần nhìn thấy được dài 27,3cm, phần rộng nhất của lưỡi rựa dài 4,3cm, trên thân lưỡi rựa in chìm 03 hình ngôi sao, cán rựa làm bằng gỗ dài 38cm, mặt cắt ngang hình tròn, đường kính rộng nhất dài 2,8cm, trên thân cán rựa có niềng 05 khoen kim loại, ở khoảng giữa khoen số 2 và số 4 có chỗ bị bể vỡ kích thước (2,1x2)cm. Rựa đã qua sử dụng.

- 01 (một) cái rựa dài 65cm, lưỡi rựa làm bằng kim loại, màu xám đen, ánh sáng kim, phần nhìn thấy được dài 28,2cm, phần rộng nhất của lưỡi rựa dài 3,4cm, trên thân lưỡi rựa in chìm 03 hình ngôi sao, cán rựa làm bằng gỗ dài 36,8cm, mặt cắt ngang hình tròn, đường kính rộng nhất dài 3cm, trên thân cán rựa có niềng 05 khoen kim loại, vị trí khoen lớn nhất (khoen số 1) tiếp giáp giữa cán và lưỡi rựa được chem (nem) 01 mảnh vải màu đỏ, kích thước nhìn thấy được (8x2,5)cm. Rựa đã qua sử dụng.

- 01 (một) cái rựa dài 52,5cm, lưỡi rựa làm bằng kim loại, màu xám đen, ánh sáng kim, phần nhìn thấy được dài 24,5cm, phần rộng nhất của lưỡi rựa dài 2,8cm, trên thân lưỡi rựa in chìm 03 hình ngôi sao, cán rựa làm bằng gỗ dài 28cm, mặt cắt ngang hình tròn, đường kính rộng nhất dài 2,5cm, trên thân cán rựa có nhiều niềng 03 khoen kim loại, ở khoảng giữa khoen số 2 và số 4 có chỗ bị bể vỡ kích thước (2,1x2)cm. Rựa đã qua sử dụng.

[10] Đối với HTS và bà HTP là người bị cáo C bảo đi làm, bản thân không biết khu vực trên là rừng phòng hộ do Nhà nước quản lý, nên cơ quan điều tra Công an huyện TB không đề cập xử lý trách nhiệm hình sự là có cơ sở nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[11] Án phí sơ thẩm: Xét bị cáo C là người đồng bào dân tộc thiểu số sống ở vùng có điều kiện kinh tế - Xã hội đặc biệt khó khăn và đã có đơn xin miễn nộp tiền án phí. Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12, 14 và Điều 15 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng xét xử xét miễn nộp tiền án phí hình sự, dân sự sơ thẩm cho bị cáo.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 243; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

1. Tuyên bố: Bị cáo C phạm tội “Hủy hoại rừng”.

Xử phạt: Bị cáo C 12 (Mười hai) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 02 (hai) năm, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo cho UBND xã TX, huyện TB, tỉnh QN để giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.

Hu quả của việc vi phạm nghĩa vụ trong thời gian thử thách: Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 (hai) lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

2. Về trách nhiệm bồi thường dân sự: Áp dụng khoản 1 Điều 48 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 30 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 584, Điều 585 và Điều 589 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

Buc bị cáo C phải có trách nhiệm bồi thường cho Nhà nước (do Ban quản lý rừng phòng hộ tỉnh QN làm đại diện) số tiền thiệt hại về rừng là 4.029.000đồng.

Tm giữ số tiền 4.029.000đồng (theo nội dung thanh toán), tại ủy nhiệm chi giữa cơ quan Công an huyện Trà Bồng và Kho bạc Nhà nước huyện TB số: 06, ngày 15 tháng 6 năm 2022 để đảm bảo thi hành án.

3. Về vật chứng trong vụ án: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 và khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự tuyên tịch thu tiêu hủy:

- 01 (một) cái rựa dài 56cm, lưỡi rựa làm bằng kim loại, màu xám đen, ánh sáng kim, phần nhìn thấy được dài 27cm, phần rộng nhất của lưỡi rựa rộng 3,5cm, cán rựa làm bằng gỗ dài 29cm, mặt cắt ngang hình tròn, đường kính rộng 3cm, trên cán rựa có niềng 04 khoen kim loại, đuôi cán rựa bị bể vỡ kích thước (3x1)cm. Rựa đã qua sử dụng.

- 01 (một) cái rựa dài 65,3cm, lưỡi rựa làm bằng kim loại, màu xám đen, ánh sáng kim, phần nhìn thấy được dài 27,3cm, phần rộng nhất của lưỡi rựa dài 4,3cm, trên thân lưỡi rựa in chìm 03 hình ngôi sao, cán rựa làm bằng gỗ dài 38cm, mặt cắt ngang hình tròn, đường kính rộng nhất dài 2,8cm, trên thân cán rựa có niềng 05 khoen kim loại, ở khoảng giữa khoen số 2 và số 4 có chỗ bị bể vỡ kích thước (2,1x2)cm. Rựa đã qua sử dụng.

- 01 (một) cái rựa dài 65cm, lưỡi rựa làm bằng kim loại, màu xám đen, ánh sáng kim, phần nhìn thấy được dài 28,2cm, phần rộng nhất của lưỡi rựa dài 3,4cm, trên thân lưỡi rựa in chìm 03 hình ngôi sao, cán rựa làm bằng gỗ dài 36,8cm, mặt cắt ngang hình tròn, đường kính rộng nhất dài 3cm, trên thân cán rựa có niềng 05 khoen kim loại, vị trí khoen lớn nhất (khoen số 1) tiếp giáp giữa cán và lưỡi rựa được chem (nem) 01 mảnh vải màu đỏ, kích thước nhìn thấy được (8x2,5)cm. Rựa đã qua sử dụng.

- 01 (một) cái rựa dài 52,5cm, lưỡi rựa làm bằng kim loại, màu xám đen, ánh sáng kim, phần nhìn thấy được dài 24,5cm, phần rộng nhất của lưỡi rựa dài 2,8cm, trên thân lưỡi rựa in chìm 03 hình ngôi sao, cán rựa làm bằng gỗ dài 28cm, mặt cắt ngang hình tròn, đường kính rộng nhất dài 2,5cm, trên thân cán rựa có nhiều niềng 03 khoen kim loại, ở khoảng giữa khoen số 2 và số 4 có chỗ bị bể vỡ kích thước (2,1x2)cm. Rựa đã qua sử dụng.

Theo biên bản giao nhận, đồ vật, tài liệu, vật chứng giữa Công an huyện TB và Cơ quan Chi cục Thi hành án dân sự huyện TB ngày 13 tháng 6 năm 2022.

4. Về án phí hình sự, dân sự sơ thẩm: Bị cáo C được miễn.

Nguyên đơn dân sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (21/7/2022). Riêng bị cáo; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại UBND xã nơi cư trú, quyền được yêu cầu công bố hay không công bố bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

131
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội hủy hoại rừng số 14/2022/HS-ST

Số hiệu:14/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trà Bồng - Quảng Ngãi
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về