Bản án về tội giết người số 597/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI

BẢN ÁN 597/2022/HS-PT NGÀY 25/08/2022 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Ngày 25 tháng 8 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Y, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 171/2022/TLPT-HS ngày 21 tháng 02 năm 2022 đối với bị cáo Nguyễn Văn H do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 03/2022/HSST ngày 12 tháng 01 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Y.

* Bị cáo có kháng cáo:

Nguyn Văn H, sinh ngày 02 tháng 9 năm 1977 tại huyện Tr, tỉnh Y; nơi cư trú: Thôn 2, xã H, huyện Tr, tỉnh Y; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 3/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Ngọc Bội (đã chết) và bà Trần Thị Lành; có vợ là Bùi Thị Hạnh và có 02 con (con lớn sinh năm 1999, con nhỏ sinh năm 2012); tiền án: Không; tiền sự: Tại Quyết định số 22/QĐ-TA ngày 09/11/2018, Tòa án nhân dân huyện Tr, tỉnh Y quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai ngH bắt buộc đối với Nguyễn Văn H; đến ngày 29/3/2021 đã chấp hành xong theo Giấy chứng nhận số 66 ngày 29/3/2021 của Cơ sở cai ngH ma túy tỉnh Y.

Nhân thân: Ngày 23/11/2001, bị Tòa án nhân dân huyện Tr xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” nhưng cho hưởng án treo.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 18/9/2021, H đang bị tạm giam tại Trại tạm giạm Công an tỉnh Y (có mặt).

* Người bào chữa do Tòa án chỉ định cho bị cáo: Luật sư Trần N - Văn phòng Luật sư H, Đoàn Luật sư tỉnh Y (có mặt).

* Bị hại: Anh Nguyễn Văn T, sinh ngày 29/8/2002 (đã chết).

* Người đại diện hợp pháp của bị hại: Ông Nguyễn Văn Đ và bà Nguyễn Thị M, sinh năm 1979; cùng trú tại: Thôn 2, xã H, huyện Tr, tỉnh Y (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 12 giờ ngày 15/9/2021, Nguyễn Văn H cùng con trai là Nguyễn Thế H và các cháu là Nguyễn Đ H, Nguyễn Văn D, Nguyễn Văn H đến chơi bi- a tại quán nhà chị Trần Thị Lh. Sau đó anh Nguyễn Văn T đi xe máy đến và rủ H đánh bi-a, nếu ai thua người đó phải trả tiền bàn và tiền nước uống. Quá trình chơi, giữa anh T và H xảy ra mâu thuẫn về cách tính điểm, dẫn đến cãi nhau.

Sau đó, anh T đi ra ngoài cửa quán gọi chị Lành để tính tiền, khi đến bàn bi-a phía ngoài cửa, mặt hướng ra cửa thì H đứng phía sau, tay phải cầm cây gậy bi a vụt 01 phát từ trái sang phải về phía Tâm nhưng không trúng, cây gậy đập vào mép bàn bi-a gãy làm 03 đoạn rơi xuống đất. H dùng tay phải nhặt 01 đoạn gậy bi-a gãy rơi dưới đất (đoạn đầu gậy có mút) vụt tiếp 01 phát về phía anh T, nhưng do con trai H và các cháu của H vào ôm, can ngăn nên không trúng. Anh T bỏ chạy qua cửa chính rồi chạy về phía đường thôn 1, xã H. H vùng vằng thoát khỏi mọi người và chạy qua cửa nách để đuổi theo anh T. Anh T chạy đến nhà anh Trương Anh H hỏi mượn chiếc xe mô tô HONDA WAVE RSX đang dựng ở ngoài sân (chiếc xe này anh Hoà đang sửa chữa nên đã tháo rời biển số xe) và điều khiển xe mô tô đi về phía xã T, nhưng sau đó lại quay lại ngã ba, một đường rẽ đi thôn 1 xã H, một đường rẽ đi xã Tân Hương, huyện Y. Lúc này, H chạy về nhà (cách quán bi-a khoảng 90m) và nhặt 01 con dao quắm ở gần đống củi tại hè nhà bếp thì anh Thế H, anh Đức H vào ôm giữ người H, vợ của H là chị Bùi Thị H có lời lẽ can ngăn H nhưng H vẫn không nghe, giằng ra rồi cầm con dao quắm quay lại quán bi-a, lấy xe mô tô HONDA WAVE RSX biển số 19S1 - 205.15 của H, tay trái vừa cầm con dao quắm vừa cầm vào tay lái và điều khiển xe đi về phía thôn 1, xã Hoà Cuông. Khi đi qua nhà mình khoảng 100m thì thấy anh T đang ngồi trên xe mô tô, cách H khoảng 60m. Anh T thấy H cầm dao nên đã điều khiển xe mô tô bỏ chạy nhanh, đi về phía thôn 1, xã H, là đoạn đường bê tông, có nhiều đoạn quanh co. H điều khiển xe mô tô đuổi theo. Trên đường đuổi theo, H hai lần quát “Thằng kia đứng lại tao bảo”, nhưng anh T vẫn điều khiển xe mô tô bỏ chạy với tốc độ cao. H đuổi theo anh T được khoảng gần 02km. Khi đến tiếp một ngã ba, anh T điều khiển xe rẽ xuống dốc là đoạn đường đất đi hang R, xã H. H thấy vậy vẫn không dừng lại mà tiếp tục rẽ xuống đuổi theo anh T. Khi đi cách ngã ba trên khoảng hơn 20m anh T điều khiển xe bị ngã, qua khám nghiệm H trường xác định là đường đất, đá không bằng phẳng lòng đường rộng 2,5m, tại H trường tại mặt ngoài của thành bê tông của bể đựng chất thải bên trái đường có kích thước 0,50x0,15m (đánh dấu vị trí số 8) có vết bám dính của lá cây và sợi màu đen (nghi là tóc), qua khám nghiệm phương tiện liên quan đến tai nạn giao thông toàn bộ xe mô tô không gắn biển số nhãn hiệu HONDAWave RSX màu sơn trắng chìa khóa điện đang mở trên bảng điều khiển H mức số 2, mặt ngoài bánh lốp trước bên trái để lại vết trượt có kích thước 16x2cm, phần ốp nhựa bảo vệ đèn chiếu sáng bị nứt vỡ xô lệch theo hướng từ phải sang trái góc bên phải phía trên để lại vết trượt xước có kích thước 13 x 7cm, phần mặt ngoài đèn chiếu sáng để lại vết trượt xước có kích thước 10 x 7cm tại bề mặt còn bám dính lại bùn đất và lá cây, phần mặt ngoài ốp nhựa sườn xe bên phải để lại vết trượt xước có kích thước 50 x 7cm tại bề mặt còn bám dính lại bùn đất và lá cây, phần ngoài tay sách bên phải để lại vết trượt xước có kích thước 14 x 4cm tại bề mặt còn bám dính lại bùn đất. Qua giám định của Viện Khoa học hình sự Bộ Công an kết luận: Mẫu lông, tóc và chất bám dính trên thành bê tông tại vị trí số 8 gửi giám định là lông, tóc người, máu người và là của tử thi Nguyễn Văn T.

Nguyễn Đức H khi thấy H cầm dao quắm điều khiển xe mô tô đuổi theo anh T nên dùng xe mô tô chở ông Nguyễn Đ đuổi theo H để can ngăn. Khi đến ngã ba rẽ đi Hang R thì thấy xe mô tô của H đổ dưới đường, còn H đang ngồi ở gần chỗ xe mô tô bị đổ, tay vẫn cầm con dao quắm. Anh Đ H và ông Đ đi xuống đỡ H dậy, dựng xe mô tô lên. H tiếp tục vùng vằng, đi xuống dốc và nói “Anh bỏ em ra để em tìm xem thằng ranh con này ở đâu” (ý nói là để H đi tìm Tâm). Anh Đ H đã giằng con dao quắm từ tay của H vứt xuống ao gần đó. Ông Đ lấy xe mô tô của anh Đ H đưa H đến Trung tâm y tế huyện Tr. Anh Đ H tiếp tục đi xuống dưới dốc thì phát H trong bụi cỏ ven đường, cách chỗ H bị ngã gần 20m có 01 xe mô tô bị đổ, còn anh T nằm bất động cạnh xe mô tô.

Tại Bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 510/TT-PC09 ngày 06/10/ 2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Y kết luận về anh Nguyễn Văn T:

1. Dấu hiệu chính qua giám định: Trên cơ thể có nhiều vết xây sát, sưng nề bầm tím vùng đầu, mặt, cổ, lưng, hai tay. Tại vùng má phải sát vành tai và vành tai phải có một số vết rách da, bờ mép nham nhở.

Mũi, miệng, hai tai có nhiều máu chảy ra khi thay đổi tư thế; vỡ răng số 6 hàm dưới bên phải, gãy xương hàm dưới.

Tổ chức dưới da tai phải, má phải, cơ thái dương phải, cơ thái dương trái tụ máu, vỡ xương thái dương phải, xương nền sọ bên phải, vỡ sập lún vào trong tổ chức não, đường vỡ xương lan sang xương bướm trái, xương thái dương trái, xương sàng phải, xương chẩm, xuất huyết màng mềm thái dương trái, tụ máu quanh tiểu não, thân não, dập nát nhu mô não vùng thái dương phải. Ethanol trong máu của Nguyễn Văn T là 30,lmg/dl.

2. Cơ chế hình thành thương tích: Các vết xây sát da sưng nề bầm tím vùng đầu, cổ, mặt, lưng, hai tay, vỡ xương số 6 hàm dưới bên phải, gãy xương hàm dưới là do va đập tày gây nên.

Các tổn thương: Rách da vùng má phải sát vành tai và vành tai phải, tụ máu tổ chức dưới da. Cơ vùng đầu,vỡ xương hộp sọ, xuất huyết màng mềm thái dương trái, tụ máu quanh tiểu não, thân não, dập nát nhu mô não vùng thái dương phải là do tác động với vật tày một lực mạnh gây nên.

Nguyên nhân chết: Chấn thương sọ não (vỡ xương hộp sọ, xuất huyết màng mềm, dập nát to chức não) trên tử thi đa chấn thương.

Tại Bản Kết luận giám định số 7205/C09-TT3 ngày 15/10/2021 của Viện Khoa học hình sự Bộ Công an kết luận: Mẫu lông, tóc và chất bám dính trên thành bê tông tại vị trí số 8 gửi giám định là lông, tóc người, máu người và là của tử thi Nguyễn Văn T. Các dấu vết nghi máu ghi thu tại vị trí số 4, 5 và 6 đều là máu người và đều là máu của Nguyễn Văn H.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 03/2022/HSST ngày 12 tháng 01 năm 2022, Tòa án nhân dân tỉnh Y đã quyết định:

Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm e khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự, xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn H 16 (mười sáu) năm tù về tội “Giết người”. Thời hạn tù tính từ ngày 18/9/2021.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí và thông báo quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 14/01/2022, bị cáo Nguyễn Văn H có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo giữ nguyên nội dung kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt với lý do bị cáo đã ăn năn, hối cải về hành vi phạm tội đã gây ra, xin lỗi gia đình bị hại; gia đình bị cáo đã bồi thường thiệt hại; bị cáo khai nhận hành vi phạm tội và tội danh như Tòa án cấp sơ thẩm xác định là chính xác, đúng pháp luật. Bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt vì rất hối hận, ngay trong ngày xảy ra vụ án do uống rượu nên đã không làm chủ bản thân.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội trình bày quan điểm giải quyết vụ án: Hành vi phạm tội của bị cáo là rất nguy hiểm, có tính chất côn đồ, đồng thời bị cáo còn có tình tiết tăng nặng là phạm tội đến cùng. Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét toàn bộ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và xử phạt bị cáo 16 năm tù là phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội. Đến giai đoạn phúc thẩm không có tình tiết giảm nhẹ nào mới, đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

Luật sư bào chữa cho bị cáo trình bày: Bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ như thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đã bồi thường thiệt hại và có tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, như vậy bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ hình phạt, đặc biệt đã bồi thường toàn bộ thiệt hại nên đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện hợp pháp của bị hại có ý kiến: Đề nghị giữ nguyên hình phạt đối với bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Các quyết định tố tụng và hành vi tố tụng của những người tiến hành tố tụng đều được thực H đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự; các chứng cứ thu thập được trong hồ sơ vụ án đều hợp pháp. Kháng cáo của bị cáo trong thời hạn luật định, đủ điều kiện xem xét theo thủ tục phúc thẩm.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về tội danh: Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo Nguyễn Văn H khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Tòa án cấp sơ thẩm kết án. Chiều ngày 15/9/2021, do phát sinh mâu thuẫn trong lúc chơi bi-a tại quán chị Trần Thị Lành thuộc thôn 2, xã H, huyện Tr, tỉnh Y, Nguyễn Văn H đã dùng gậy bi-a đánh anh Nguyễn Văn T. Khi anh T bỏ chạy ra ngoài đường, mặc dù đã được mọi người can ngăn nhưng H không dừng lại mà tiếp tục điều khiển xe mô tô, tay cầm 01 con dao quắm có tổng chiều dài 67cm để đuổi theo anh T. Do thấy H truy đuổi quyết liệt, sợ bị đánh tiếp nên anh T điều khiển xe mô tô bỏ chạy thoát thân với tốc độ cao trên đường bê tông liên thôn, đường hẹp, nhiều chỗ quanh co, gồ ghề và lỗi lõm. Bị cáo H nhận thức được việc anh T điều khiển xe mô tô với tốc độ cao trên đoạn đường gồ ghề, lồi lõm và đi xuống dốc có thể gây tai nạn nguy hiểm đến tính mạng nhưng bị cáo H vẫn cầm dao quắm đuổi theo quyết liệt với mục đích để đánh chém anh T. Hậu quả làm anh T hoảng sợ ngã đập đầu xuống đường dẫn đến tử vong.

Lời khai nhận tội của bị cáo H phù hợp với lời khai nhận tội của bị cáo tại cơ quan điều tra, phiên tòa sơ thẩm và các chứng cứ khác như biên bản khám nghiệm tử thi, khám nghiệm H trường, vật chứng của vụ án và phù hợp với lời khai của những người làm chứng. Tòa án cấp sơ thẩm kết án bị cáo Nguyễn Văn H phạm tội “Giết người” theo quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Bị cáo không kháng cáo về tội danh mà chỉ kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

[2.2] Về hình phạt, xét kháng cáo của bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt thấy rằng: Tính chất vụ án là rất nghiêm trọng. Hành vi phạm tội của bị cáo rất nguy hiểm. Bị cáo H nhận thức được tính mạng, sức khỏe con người được pháp luật bảo vệ, không ai được xâm phạm nhưng chỉ vì mâu thuẫn nhỏ nhặt trong việc chơi bi-a với anh T, bị cáo đã dùng gậy chơi bi-a đánh anh T làm gậy bị gãy. Mặc dù được nhiều người can ngăn nhưng Nguyễn Văn H vẫn cố tình vùng ra và lái xe mô tô đuổi đánh anh T, hơn nữa bị cáo còn cầm theo dao quắm đuổi đánh anh T với thái độ hung hăng, quyết liệt. Khi anh T lái xe mô tô chạy vào đoạn đường hẹp gồ ghề xuống dốc, bị cáo vẫn tiếp tục đuổi theo làm anh T hoảng sợ bị ngã dẫn đến tử vong. Hành vi phạm tội của bị cáo có tính chất côn đồ, coi thường tính mạng con người, thể H quyết tâm phạm tội đến cùng của bị cáo. Tòa án cấp sơ thẩm xác định bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng “cố tình thực H tội phạm đến cùng” quy định tại điểm e khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự là có căn cứ.

Khi quyết định hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét về tính chất vụ án, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đã bồi thường thiệt hại; bị cáo có mẹ đẻ được thưởng Huân chương, đồng thời xem xét về nhân thân. Trên cơ sở đó xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H 16 năm tù là phù hợp với tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội do bị cáo thực H, có tác dụng giáo dục răn đe phòng ngừa tội phạm.

Đến giai đoạn phúc thẩm, không có thêm tình tiết giảm nhẹ nào khác. Do đó không có cơ sở chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn H và không có cơ sở chấp nhận đề nghị của Luật sư bào chữa cho bị cáo. Ý kiến và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là có căn cứ.

[3] Về án phí: Kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn H không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

[4] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bởi các lẽ trên;

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự;

QUYẾT ĐỊNH

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn H; giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 03/2022/HSST ngày 12 tháng 01 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Y

1. Về tội danh: Tuyên bố Nguyễn Văn H phạm tội “Giết người”.

2. Về hình phạt: Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm e khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự, xử phạt Nguyễn Văn H 16 (mười sáu) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 18/9/2021.

[3] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn H phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

[4] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

51
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội giết người số 597/2022/HS-PT

Số hiệu:597/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về