TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH YÊN BÁI
BẢN ÁN 50/2022/HS-ST NGÀY 09/11/2022 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI
Ngày 09 tháng 11 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Yên Bái, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 44/2022/TLST-HS ngày 12 tháng 10 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 51/2022/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 10 năm 2022, đối với bị cáo:
Vũ Văn H, sinh ngày 01 tháng 3 năm 1987 tại huyện VY, tỉnh Yên Bái; nơi cư trú: Thôn PT, xã CQH, huyện VY, tỉnh Yên Bái; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vũ Xuân H1 và bà Tạ Thị Ch; vợ, con: Chưa có;
Tiền án: 01 tiền án (Bản án số 45/2021/HS-ST ngày 15/9/2021 của Toà án nhân dân huyện VY, tỉnh Yên Bái xử phạt Vũ Văn H 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, ngày 11/6/2022 chấp hành xong hình phạt tù);
Tiền sự: 01 (Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 12/QĐ-XPHC ngày 11/6/2021 của Công an huyện VY, tỉnh Yên Bái xử phạt Vũ Văn H 750.000 đồng về hành vi Sử dụng trái phép chất ma túy, ngày 05/8/2021 nộp tiền phạt);
Nhân thân:
Quyết định số 920/QĐ-UBND ngày 28/6/2013 của Ủy ban nhân dân huyện VY, tỉnh Yên Bái về việc đưa đi cai nghiện đối với Vũ Văn H, với thời hạn 24 tháng; Quyết định số 2144/QĐ-UBND ngày 06/11/2015 của Ủy ban nhân dân huyện VY, tỉnh Yên Bái về việc miễn thời gian chấp hành Quyết định đối với người nghiện ma túy Vũ Văn H theo Quyết định số 920/QĐ-UBND ngày 28/6/2013;
Quyết định khởi tố vụ án hình sự số 35/KTVA ngày 02/8/2018 của Công an huyện VY, tỉnh Yên Bái đối với Vũ Văn H về hành vi Cố ý gây thương tích; Quyết định đình chỉ điều tra vụ án hình sự số 12/QĐ-ĐCĐT ngày 18/9/2018; Quyết định đình chỉ điều tra bị can số 01/QĐ-ĐCĐT ngày 18/9/2018 của Công an huyện VY, tỉnh Yên Bái.
Quyết định cai nghiện ma túy tự nguyện tại gia đình, cộng đồng số 63/QĐ-UBND ngày 07/7/2022 của Ủy ban nhân dân xã CQH, huyện VY, tỉnh Yên Bái đối với Vũ Văn H, thời hạn từ 07/7/2022 đến ngày 07/7/2024.
Bị cáo bị tạm giữ ngày 06/8/2022, hiện đang bị tạm giam tại Trại Tạm giam Công an tỉnh Yên Bái - có mặt tại phiên tòa.
Người bào chữa của bị cáo Vũ Văn H: Ông Trần Ng - Luật sư Văn phòng luật sư HH, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Yên Bái; có mặt.
- Bị hại: Anh Cù Xuân N, sinh năm 1989 (đã chết ngày 05/8/2022) Người đại diện hợp pháp của bị hại Cù Xuân N:
+ Ông Cù Văn S, sinh năm 1968 (bố đẻ Cù Xuân N) – có mặt;
+ Bà Hà Thị Th, sinh năm 1971 (mẹ đẻ Cù Xuân N) – có mặt;
+ Chị Lương Thị Thu H2, sinh năm 1989 (vợ Cù Xuân N) – có mặt;
Người đại diện theo ủy quyền của ông Cù Văn S và bà Hà Thị Th: Chị Lương Thị Thu H2, sinh năm 1989 (theo giấy ủy quyền ngày 01/11/2022).
Cùng cư trú: Thôn CV, xã MĐ, huyện VY, tỉnh Yên Bái.
- Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
+ Cháu Cù Như Ng1, sinh năm 2011 (con Cù Xuân N) – vắng mặt.
+ Cháu Cù Min N1, sinh năm 2015 (con Cù Xuân N) – vắng mặt.
Người đại diện hợp pháp của cháu Cù Như Ng1 và cháu Cù Min N1: Chị Lương Thị Thu H2 (mẹ đẻ của cháu Ng1 và cháu N1) - có mặt.
Cùng trú tại: Thôn CV, xã MĐ, huyện VY, tỉnh Yên Bái.
+ Chị Vũ Thị G, sinh năm 1985 Nơi cư trú: Thôn HL, xã CQH, huyện VY, tỉnh Yên Bái.
+ Ông Vũ Xuân H1, sinh năm 1964.
Nơi cư trú: Thôn PT, xã CQH, huyện VY, tỉnh Yên Bái.
+ Anh Nguyễn Ngọc Q, sinh năm 1981 Nơi cư trú: Thôn NM, xã ÂL, thành phố YB, tỉnh Yên Bái.
(Chị G, ông H1, anh Q - vắng mặt, đều có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).
- Những người làm chứng:
+ Ông Hoàng Văn H3, sinh năm 1969
+ Anh Nguyễn Văn H4, sinh năm 1982 Cùng trú tại: Thôn ĐA, xã AT, huyện VY, tỉnh Yên Bái.
+ Anh Ninh Đình B, sinh năm 1979 Nơi cư trú: Thôn TT, xã ĐC, huyện VY, tỉnh Yên Bái.
+ Anh Nguyễn Ngọc V, sinh năm 1984 Nơi cư trú: Thôn NM, xã ÂL, thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái. (Những người làm chứng đều vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vũ Văn H là đối tượng nghiện chất ma túy, H nhiều lần mua ma tuý, loại Heroine của Cù Xuân N để về sử dụng. Trong các lần trao đổi mua bán ma tuý, H cho rằng N luôn tỏ thái độ coi thường, không tôn trọng mình, nên H bực tức và nảy sinh ý định nếu lần sau gặp mà N còn tỏ thái độ như vậy thì H sẽ đâm N.
Khoảng đầu tháng 8/2022, H đã ra chợ TH, huyện VY, tỉnh Yên Bái mua 01 con dao, loại dao bầu, có chiều dài cả chuôi và lưỡi là 29cm (phần lưỡi dao dài 18,5cm, bản dao nơi rộng nhất là 4,5cm, mũi dao nhọn, lưỡi dao có khắc chữ “TRÀ LÝ”, chuôi dao làm bằng gỗ, 02 đầu chuôi dao có 02 khuy bằng kim loại, trên chuôi dao có khắc số 40.
Đến khoảng 15 giờ ngày 05/8/2022, Vũ Văn H giắt theo con dao đã mua vào cạp quần phía trước, hỏi mượn chiếc xe môtô 49E1-X.82 của chị Vũ Thị G (là cô ruột của H) rồi H điều khiển xe môtô đi đến khu vực bờ sông thuộc thôn CV, xã MĐ, huyện VY, tỉnh Yên Bái, tìm gặp Cù Xuân N để mua ma túy sử dụng. Đến nơi, H để xe máy ở dưới đường mòn và đi bộ lên đồi quế ở cách đó khoảng 30m, tại đồi quế H gặp Hoàng Văn H3, Nguyễn Văn H4, Ninh Đình B và một người có tên là C, H hỏi mọi người N đâu thì bốn người đều bảo “Đợi tý, N về lấy hàng”. Nghe vậy, H lại đi xuống chỗ để xe môtô của mình thì thấy N đang đi xe môtô đến, N điều khiển xe đến gần vị trí xe của H thì dừng lại, lúc này N ngồi trên xe môtô, H đứng đối diện, cách N khoảng 01 mét. H bảo N “Để cho một cái hàng” giá 200.000 đồng. N không nói gì, thấy N trợn mắt nhìn mình, nghĩ là N đang thách thức, coi thường mình nên H đã dùng tay trái rút con dao mà H đang giắt ở cạp quần phía trước ra, cầm dao vung lên theo hướng từ trên xuống dưới đâm hai nhát về phía người N, 01 nhát trúng vào vùng ngực bên phải và 01 nhát trúng vào tay phải của N. Bị H đâm, N loạng choạng lùi lại phía sau và ôm ngực chạy lên đồi cây quế khu vực H3, H4, B, C đang ngồi. Sau đó N được H4 và B đưa đi cấp cứu tại Trung tâm y tế huyện VY, tỉnh Yên Bái. Đến khoảng 19 giờ 30 phút cùng ngày anh Cù Xuân N tử vong.
Sau khi dùng dao đâm N, H điều khiển xe môtô đi đến nhà anh Nguyễn Ngọc V. Tại đây, H mượn điện thoại của anh V để gọi cho bố đẻ là ông Vũ Xuân H1, nói cho ông H1 biết việc H vừa dùng dao đâm một người ở xã MĐ, huyện VY, tỉnh Yên Bái và H đang gửi xe môtô ở nhà anh V. Tiếp đó H vay anh Nguyễn Ngọc Q (là anh trai của anh V) số tiền 200.000 đồng rồi H đi bộ ra đường cao tốc Nội Bài - Lào Cai để bắt xe ôtô khách đi Lào Cai. Vũ Văn H bị Cơ quan Công an bắt giữ và thu giữ tang vật khi đang trốn tại xã SH, huyện BT, tỉnh Lào Cai.
Quá trình điều tra, Vũ Văn H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên.
* Tại Bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 425/KL-KTHS ngày 12/9/2022 đối với Cù Xuân N của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Yên Bái kết luận:
- Dấu hiệu chính qua giám định:
+ Tay phải có một số vết thương rách da, xước da, bờ mép sắc gọn.
+ Vùng ngực bên phải có vết thương xuyên thấu vào trong khoang liên sườn 4, 5 làm đứt xương sườn số 5 và một phần xương sườn số 4; rách nhu mô phổi phải, rách cơ hoành bên phải, rách nhu mô gan bên phải; tràn máu khoang màng phổi phải, ổ bụng.
- Nguyên nhân chết: Mất máu cấp do vết thương thấu ngực, bụng: rách nhu mô phổi phải, rách cơ hoành, rách nhu mô gan; tràn máu khoang màng phổi phải, ổ bụng.
* Tại Bản kết luận giám định pháp y về ADN số 379/TC-ADN ngày 17/8/2022 của Viện Pháp y Quốc gia kết luận:
- Thử định tính phát hiện nhanh vết máu người trên con dao, chiếc quần, chiếc áo gửi giám định: Dương tính.
- ADN thu từ con dao, chiếc quần, chiếc áo gửi giám định trùng khớp hoàn toàn với ADN của Cù Xuân N trên tất cả các locus STR đã so sánh.
* Vật chứng thu giữ của Vũ Văn H:
- 01 con dao, loại dao bầu, có chiều dài cả chuôi và lưỡi là 29cm (phần lưỡi dao dài 18,5cm, bản dao nơi rộng nhất là 4,5cm, mũi dao nhọn, lưỡi dao có khắc chữ “TRÀ LÝ”, chuôi dao làm bằng gỗ, 02 đầu chuôi dao có 02 khuy bằng kim loại, trên chuôi dao có khắc số 40;
- 01 áo phông cổ bẻ cộc tay màu tím than, tại phần cổ có máu ghi chữ “minshu.w.z-54/XXL”, phần cổ bẻ ra ngoài có kẻ đen, trắng, vàng, hai bên tay áo được may nền màu trắng, tại phần trước tay áo bên trái có vết nhỏ giọt máu màu đỏ;
- 01 quần thô cộc màu xám, tại phần cạp quần có ghi chữ “BOSSIMINGTQ” phía trong cạp quần bên trái cách khuy cúc 23,5cm có vết máu màu đỏ. Mặt trước ống quần bên trái cách gấu 20cm có vết máu màu đỏ. Tại mặt quần trước ống bên phải cách gấu quần 19cm có vết máu màu đỏ.
* Vật chứng thu giữ khi khám nghiệm tử thi: 01 băng gạc y tế có thấm máu của tử thi Cù Xuân N để khô tự nhiên được đóng gói vào 01 tờ giấy trắng sau đó cho vào phong bì gửi đi giám định (vật chứng này đã sử dụng trong quá trình giám định).
* Xử lý đồ vật tạm giữ của vụ án: Đối với chiếc xe môtô nhãn hiệu YAMAHA Sirius màu đen, BKS 49E1-X.82, kết quả điều tra xác định chủ sở hữu hợp pháp của chiếc xe này là của chị Vũ Thị G (sinh năm 1985; trú tại: Thôn HL, xã CQH, huyện VY, tỉnh Yên Bái) nên Cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp.
* Về trách nhiệm dân sự: Người đại diện hợp pháp của bị hại là chị Lương Thị Thu H2 yêu cầu Vũ Văn H phải bồi thường tổng số tiền 424.500.200 đồng. Ông Vũ Xuân H1 (bố bị cáo H) đã bồi thường 2.000.000 đồng. Còn phải bồi thường 422.500.200 đồng.
Cáo trạng số 64/CT-VKS-P2 ngày 11 tháng 10 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Yên Bái truy tố: Vũ Văn H về tội “Giết người” quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa sơ thẩm:
* Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:
1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Vũ Văn H phạm tội “Giết người”.
2. Về hình phạt: Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự Xử phạt bị cáo Vũ Văn H từ 18 năm – 20 năm tù.
3. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 584, Điều 585, Điều 586, Điều 591, Điều 593 của Bộ luật Dân sự.
Bị cáo Vũ Văn H chấp nhận bồi thường thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm cho ông Cù Văn S, bà Hà Thị Th (bố, mẹ đẻ của bị hại), Lương Thị Thu H2 (vợ của bị hại), Cù Như Ng1 và Cù Min N1 (con đẻ của bị hại) là những người trong hàng thừa kế thứ nhất của bị hại Cù Xuân N, tổng số tiền 96.000.200 đồng và tiền cấp dưỡng nuôi con chưa thành niên của bị hại: Cháu Cù Như Ng1 là 129.000.000 đồng, cháu Cù Min N1 là 199.500.000 đồng. Tổng cộng 424.500.200 đồng, trừ đi 2.000.000 đồng (gia đình bị cáo đã bồi thường), còn phải bồi thường 422.500.200 đồng.
4. Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự Tịch thu tiêu hủy: 01 con dao, loại dao bầu; 01 áo phông cổ bẻ cộc tay; 01 quần thô cộc màu xám.
5. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án, Bị cáo Vũ Văn H phải chịu tiền án phí theo quy định của pháp luật.
* Người bào chữa của bị cáo Vũ Văn H đề nghị:
Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Vũ Văn H từ 16 năm - 17 năm tù.
Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo chấp nhận bồi thường theo yêu cầu của người đại diện hợp pháp của bị hại. Công nhận sự thỏa thuận bồi thường giữa bị cáo và người đại diện hợp pháp của bị hại.
* Bị cáo khai báo thành khẩn, không có ý kiến tranh luận, lời nói sau cùng không có đề nghị gì.
* Đại diện hợp pháp của bị hại: Yêu cầu bị cáo phải bồi thường số tiền 422.500.200 đồng và xử lý bị cáo theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện VY và Công an tỉnh Yên Bái, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện VY và Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Yên Bái, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa sơ thẩm, những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và những người làm chứng vắng mặt, tuy nhiên sự vắng mặt của những người tham gia tố tụng trên không gây trở ngại cho việc xét xử. Vì vậy, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt theo quy định tại Điều 292, Điều 293 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
[3] Về tội danh: Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của những người tham gia tố tụng khác và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập trong hồ sơ vụ án, được xem xét tại phiên tòa. Như vậy đã có đủ cơ sở xác định:
Khoảng 15 giờ ngày 05/8/2022, tại khu vực thôn CV, xã MĐ, huyện VY, tỉnh Yên Bái. Vũ Văn H đã dùng tay trái rút 01 con dao (loại dao bầu có chiều dài 29cm, trong đó phần lưỡi dao dài 18,5cm, chỗ rộng nhất 4,5cm, mũi dao nhọn, lưỡi dao có khắc chữ “TRÀ LÝ”, chuôi dao làm bằng gỗ, 02 đầu chuôi dao có 02 khuy bằng kim loại, trên chuôi dao có khắc số 40) đang giắt ở cạp quần phía trước ra, vung lên theo hướng từ trên xuống dưới đâm hai nhát về phía người anh Cù Xuân N, 01 nhát trúng vào vùng ngực bên phải và 01 nhát trúng vào tay phải của N. Hậu quả làm anh Cù Xuân N đã tử vong cùng ngày.
Bị cáo Vũ Văn H là người có năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc dùng hung khí nguy hiểm tấn công vào vùng trọng yếu trên cơ thể người khác thì có khả năng gây thiệt hại đến tính mạng con người, bị cáo không có mâu thuẫn với anh N nhưng với ý thức coi thường tính mạng của người khác nên đã đâm anh N hai nhát, hậu quả làm anh N tử vong. Vì vậy, với hành vi nêu trên Vũ Văn H phải chịu trách nhiệm hình sự về tội “Giết người” theo quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 của Bộ luật Hình sự.
[4] Xét tính chất, mức độ phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, HĐXX thấy rằng:
Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Vũ Văn H có một tiền án chưa được xóa án tích nên phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự "Tái phạm" quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo đã khai báo thành khẩn về hành vi phạm tội của mình, tác động gia đình bồi thường số tiền 2.000.000 đồng cho đại diện hợp pháp của người bị hại (số tiền bồi thường không đáng kể). Vì vậy, Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo.
Bị cáo là người có nhân thân xấu, nghiện chất ma túy, có tiền án, tiền sự. Vì vậy HĐXX thấy rằng cần phải áp dụng mức hình phạt tù tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi của bị cáo đã gây ra mới có thể giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho gia đình và xã hội đồng thời có tác dụng răn đe những người khác có ý thức tôn trọng pháp luật và góp phần tích cực trong việc đấu tranh phòng ngừa tội phạm.
[5] Về trách nhiệm dân sự:
* Đại diện hợp pháp của người bị hại yêu cầu bị cáo phải bồi thường các khoản tiền sau:
1. Tiền viện phí: 2.711.200 đồng (có hóa đơn).
2. Tiền xe đưa đi cấp cứu và đưa thi thể bị hại về nhà: 3.289.000 đồng (có giấy biên nhận).
3. Tiền mai táng phí: Tổng là 40.000.000 đồng (có giấy biên nhận), bao gồm:
- Tiền áo quan: 6.000.000 đồng - Tiền thuê thợ kèn, phông bạt, đồ dùng phục vụ đám tang: 14.000.000 đồng - Tiền xây mộ: 20.000.000 đồng
4. Tiền trợ cấp nuôi con (yêu cầu cấp dưỡng một lần):
- Con thứ nhất (Cù Như Ng1, sinh ngày 30/10/2011): Từ ngày 05/8/2022 đến khi 18 tuổi là 86 tháng x 1.500.000 đồng/tháng = 129.000.000 đồng.
- Con thứ hai (Cù Min N1, sinh ngày 13/9/2015): Từ ngày 05/8/2022 đến khi 18 tuổi là 132 tháng x 1.500.000 đồng/tháng = 199.500.000 đồng.
5. Tiền bồi thường tổn thất về tinh thần cho 05 người (Bố đẻ, mẹ đẻ, vợ và 02 con): 50.000.000 đồng.
Tổng cộng 424.500.200 đồng, trừ đi 2.000.000 đồng (gia đình bị cáo đã bồi thường), còn phải bồi thường 422.500.200 đồng.
Tại phiên tòa, bị cáo chấp nhận bồi thường tất cả các khoản tiền do người đại diện hợp pháp của bị hại yêu cầu.
Do vậy, bị cáo phải bồi thường thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm cho những người đại diện hợp pháp của bị hại Cù Xuân N và hai con của bị hại số tiền 96.000.200 đồng, xác nhận gia đình bị cáo đã bồi 2.000.000 đồng; còn phải bồi thường tiếp là 94.000.200 đồng và tiền cấp dưỡng nuôi con chưa thành niên của bị hại (đối với cháu Cù Như Ng1 là 129.000.000 đồng; đối với cháu Cù Min N1 là 199.500.000 đồng), cấp dưỡng một lần.
[6] Về xử lý vật chứng: 01 con dao, loại dao bầu; 01 áo phông cổ bẻ cộc tay màu tím than; 01 quần thô cộc màu xám. Không còn giá trị sử dụng nên đều tịch thu tiêu hủy.
[7] Về các vấn đề khác:
Ông Vũ Xuân H1 đã bồi thường cho gia đình bị hại số tiền 2.000.000 đồng và trả cho anh Nguyễn Ngọc Q 200.000 đồng (số tiền bị cáo đã vay). Ông H1 không yêu cầu bị cáo Vũ Văn H phải trả lại nên HĐXX không xét.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (Vũ Thị G) đã nhận lại xe môtô và không có yêu cầu gì khác.
[8] Về án phí: Bị cáo Vũ Văn H phải chịu án phí hình sự sơ thẩm, án phí dân sự sơ thẩm, án phí cấp dưỡng theo quy định.
[9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, đại diện hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan (đại diện hợp pháp của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan) được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Vũ Văn H phạm tội: “Giết người”.
2. Về hình phạt: Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự Xử phạt bị cáo Vũ Văn H 19 (mười chín) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 06/08/2022.
3. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 584, Điều 585, Điều 586, Điều 591, Điều 593, Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự.
Bị cáo Vũ Văn H phải bồi thường thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm cho ông Cù Văn S, bà Hà Thị Th (bố, mẹ đẻ của bị hại), Lương Thị Thu H2 (vợ của bị hại), Cù Như Ng1 và Cù Min N1 (con đẻ của bị hại) là những người trong hàng thừa kế thứ nhất của bị hại Cù Xuân N, tổng số tiền 96.000.200 đồng (chín mươi sáu triệu, hai trăm đồng), xác nhận gia đình bị cáo đã bồi 2.000.000 đồng; còn phải bồi thường tiếp là 94.000.200 đồng và tiền cấp dưỡng nuôi con chưa thành niên của bị hại (đối với cháu Cù Như Ng1 là 129.000.000 đồng; đối với cháu Cù Min N1 là 199.500.000 đồng), cấp dưỡng một lần.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357 và Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
4. Về vật chứng: Áp dụng Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Tịch thu tiêu huỷ:
- 01 (một) con dao, loại dao bầu, có chiều dài cả chuôi và lưỡi là 29cm, lưỡi dao dài 18,5cm, nơi bản dao rộng nhất là 4,5cm, mũi dao nhọn, lưỡi dao có chữ “TRÀ LÝ”, chuôi dao làm bằng gỗ, 02 đầu chuôi dao có 02 khuy bằng kim loại, trên chuôi dao có khắc số 40;
- 01 (một) áo phông cổ bẻ cộc tay màu tím than, tại phần cổ có máu, ghi chữ “minshu.w.z-54/XXL”, phần cổ bẻ ra ngoài có kẻ đen, trắng, vàng, hai bên tay áo được may nền màu trắng, tại phần trước tay áo bên trái có vết nhỏ giọt máu màu đỏ;
- 01 (một) quần thô cộc màu xám, tại phần cạp quần có ghi chữ “BOSSIMINGTQ” phía trong cạp quần bên trái cách khuy cúc 23,5cm có vết máu màu đỏ. Mặt trước ống quần bên trái cách gấu 20cm có vết máu màu đỏ. Tại mặt quần trước ống bên phải cách gấu quần 19cm có vết máu màu đỏ.
(Các vật chứng nêu trên có đặc điểm, dấu hiệu được mô tả tại biên bản giao nhận vật chứng ngày 31/10/2022 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Yên Bái và Cục Thi hành án dân sự tỉnh Yên Bái, hiện được bảo quản tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh Yên Bái).
4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23; Điều 26, Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, Bị cáo Vũ Văn H phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm; 4.700.000 đồng (bốn triệu bảy trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm và 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) tiền án phí cấp dưỡng.
5. Quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Bị cáo, đại diện hợp pháp của bị hại có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Cháu Cù Như Ng1 và cháu Cù Min N1 (do chị Lương Thị Thu H2 đại diện có mặt tại phiên tòa) được quyền kháng cáo phần bản án có liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo phần bản án có liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết công khai theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về tội giết người số 50/2022/HS-ST
Số hiệu: | 50/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Yên Bái |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 09/11/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về