Bản án về tội giết người số 394/2020/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 394/2020/HS-PT NGÀY 10/07/2020 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Ngày 10 tháng 7 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 135/2020/TLPT- HS ngày 15 tháng 4 năm 2020 đối với bị cáo Đỗ Văn T. Do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 11/2020/HS-ST ngày 03-3-2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

- Bị cáo kháng cáo:

Đỗ Văn T, sinh năm 1984 tại tỉnh Vĩnh Phúc; HKTT: thôn Đ, xã D, huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc. Tạm trú: ấp H, xã P, thị xã M, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 06/12; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Cha: Đỗ Văn V, sinh năm: 1955; Mẹ: Đặng Thị H (đã chết năm 2017); Vợ: Nguyễn Thị O, sinh năm 1987; Có 03 con: lớn nhất sinh năm 2007, nhỏ nhất sinh năm 2014.

Tiền án, tiền sự: không.

Bị bắt ngày 06/8/2019 (Có mặt).

- Người bào chữa cho bị cáo theo luật định: Luật sư Trương Thị Thu H1 - thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).

(Trong vụ án còn có đại diện hợp pháp của bị hại không kháng cáo, không liên quan đến kháng cáo nên Tòa án không triệu tập đến phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Đỗ Văn T và chị Nguyễn Thị O, sinh năm 1987, trú tại thôn Đ, xã D, huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc kết hôn với nhau vào năm 2006 và có 03 người con chung gồm: Đỗ Thị Hoài L, sinh năm 2007; Đỗ Thị Hương G, sinh năm 2009 và Đỗ Quốc H2, sinh năm 2014. Quá trình chung sống, giữa T và chị O thường xảy ra mâu thuẫn, tranh cãi. Khoảng tháng 4 năm 2018, chị O đến nhà dì ruột là bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1970 ở tổ 5, ấp B, xã P, thị xã M, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu sinh sống. Đến khoảng tháng 9 năm 2018, chị O đón các con đến ở cùng nhưng không cho T biết nơi ở của mình cùng các con. T tìm hiểu thông tin từ trường học cũ của cháu L và biết được địa chỉ của chị O đang ở. Sau đó, T đi tìm, gặp và thuyết phục chị O cho ở cùng. Chị O đồng ý nên cùng T và các con đến thuê nhà của anh Hoàng Anh T1, sinh năm 1976 ở ấp H, xã P, thị xã M, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu sinh sống. Thời gian sống chung, giữa T và chị O tiếp tục nảy sinh mâu thuẫn và cãi vả.

Khoảng 18 giờ ngày 26/7/2019, T dẫn hai con là L và G đi mua thức ăn đem về nhà, trong lúc hai con gái ngồi ăn thì T uống bia và rượu, chị O không ăn chung mà ngồi gần đó cho cháu H2 ăn. Khoảng 20 giờ cùng ngày, chị O sử dụng xe máy chở các con đi chơi, T đến bàn học của cháu L ngồi viết thư trên giấy kẻ ô ly gửi các con với nội dung: “Bố yêu các con của bố lắm, nay bố vội viết tấm thư này mong các con hiểu cho bố. Mặc dù bố không muốn vậy đâu nhưng cuộc sống mẹ con không hiểu và đồng cảm được cho bố nên bố mới làm vậy. Nay các con tự lựa chọn về ở với ông nội hay bà ngoại thì các con tự biết, còn bố mẹ chịu không còn gì nữa. Bố thương”. Viết thư xong, T đến nhà Nguyễn Văn T2, sinh năm 1976, địa chỉ: tổ 2, ấp H, xã P, thị xã M chơi. Đến khoảng 22 giờ cùng ngày, T đi về nhà và cãi nhau với chị O, do tức giận T dùng tay đánh vào mặt chị O, Chị O không đánh trả lại mà đi ngủ cùng cháu H2.

Đến khoảng 01 giờ sáng ngày 27/7/2019, T và chị O đi ra đường phía trước nhà tiếp tục cãi vả. Chị O nói không cho T sống chung cùng các con nữa. Sau đó, T và chị O đi đến phía trước cổng vào chuồng heo bên phải căn nhà và tiếp tục cãi nhau. Do bị T dùng tay tát vào mặt nên chị O tức giận, lấy con dao (loại dao bầu) đang cất giấu trong người đâm một nhát vào phía trước bụng của T. T dùng tay phải cầm lưỡi dao, bàn tay trái cầm cổ tay O và giằng co tước đoạt con dao trên tay O. Trong lúc giằng co, lưỡi dao cứa làm rách da ngón tay giữa và ngón nhẫn bàn tay phải của T. Sau khi tướt được dao, tay phải T cầm dao, tay trái cặp cổ chị O dẫn ra bãi cát cạnh nơi để xe cuốc của anh Hoàng Anh T1 rồi đâm chị O nhiều nhát theo hướng từ trên xuống dưới trúng vào vùng lưng và cổ của chị O. Chị O la lên kêu cứu. Nghe tiếng kêu la của chị O, hai cháu L và G chạy từ trong nhà ra khu đất trống nhìn thấy T đang cầm con dao đâm vào người chị O rồi tự cứa vào cổ mình. T ném con dao vào vườn tràm gần đó rồi gục xuống cạnh chị O. T được người thân đưa đi cấp cứu kịp thời tại bệnh viện Bà Rịa, chị O chết tại hiện trường.

Tại Bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 255/PC09-Đ4 ngày 22/8/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, kết luận:

1. Dấu hiệu chính qua giám định: Vết thương rách da cơ 1/3 giữa lưng trái, nằm ngang hình khe, mép gọn, góc ngoài nhọn, góc trong tù. Kích thước 8cm x 3cm. Vết thương này xuyên thấu vào khoang ngực trái ở khoang liên sườn 8, theo chiều từ sau ra trước; Xuyên thấu thùy dưới phổi trái tạo ra vết thương hình khe, kích thước 4.7cm x 0.7cm, gây tràn máu khoang ngực trái; Xuyên rách mặt sau màng ngoài tim tạo ra vết thương hình khe, kích thước 3,5cm x 1cm; Xuyên thấu cơ tim thất trái vào buồng thất trái tim tạo ra vết thương hình khe, kích thước 3,5cm x 0,6cm, gây tràn máu khoang màng ngoài tim và tràn máu từ khoang màng ngoài tim ra khoang ngực trái.

2. Nguyên nhân chết: Nguyễn Thị O chết do vết thương thấu ngực từ phía lưng, xuyên thấu phổi, thấu màng ngoài tim, thấu tim, mất máu cấp.

Tại Kết luận giám định số 4426/C09B, ngày 11/11/2019 của Phân viện Khoa học hình sự Bộ công an tại Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: Các mẫu nghi máu trên chiếc dép và trên tấm gạc là máu người có kiểu gen trùng với kiểu gen của Nguyễn Thị O (bút lục số 73).

Tại biên bản xác minh về thương tích và bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 285/TgT ngày 08/10/2019 của Trung tâm pháp y tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đối với Đỗ Văn T ghi nhận “Vết thương cổ phải dài 06 – 07 cm nhiều vết trầy xước nhỏ xung quanh, lộ cấu trúc dưới da, rỉ máu; Vết thương cạnh trái rốn, phồi mạc nối. Bụng mềm, đau hạ vị; Nồng độ rượu/ máu: 2,1002 g/l”. Tại phần kết luận giám định xác định:

1. Dấu hiệu chính qua giám định: 01 vết thương cạnh trái rốn thấu bụng, phòi mạc nối lớn, thủng đoạn 3 tá tràng 01 lỗ, đã được phẩu thuật khâu lổ thủng. Hiện tình trạng ổn định.

2. Về vật gây thương tích, cơ chế hình thành thương tích: Thương tích trên phù hợp được gây ra do sự tác động tương hỗ của vật sắc nhọn, tác động vào vị trí vết thương theo chiều hướng từ trước ra sau.

3. Tỷ lệ tổn thương cơ tể do thương tích gây ra hiện tại là 37%.(Ba mươi bảy phần trăm) (bút lục số 67 đến 70; 101 - 102).

Trong quá trình điều tra, ngày 15/10/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra (PC02) Công an tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã tổ chức thực nghiệm điều tra cho Đỗ Văn T diễn lại hành vi của bản thân, kết quả: bị can diễn tả được hành vi của bản thân phù hợp với lời khai của mình, hoàn toàn phù hợp với lời khai người làm chứng và các chứng cứ, tài liệu khác của vụ án.

Tại bản Cáo trạng số 04/CT-VKS-P2 ngày 18 tháng 12 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu truy tố bị cáo Đỗ Văn T về tội “Giết người” theo điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 11/2020/HSST ngày 03-3-2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu quyết định:

Tuyên bố bị cáo Đỗ Văn T phạm tội “Giết người”.

Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ Luật hình sự.

Xử phạt: Đỗ Văn T 20 (hai mươi) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 06/8/2019.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 06/3/2020, bị cáo Đỗ Văn T có đơn kháng cáo với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bị cáo Đỗ Văn T thừa nhận hành vi phạm tội, chỉ kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt do gia đình bị hại đã bãi nại và bị cáo còn có 03 con nhỏ phải nuôi dưỡng.

Người bào chữa cho bị cáo, Luật sư Trương Thị Thu H1 phát biểu ý kiến: Bị cáo còn rất thương vợ, ân hận về hành vi của mình. Sau khi xét xử sơ thẩm, gia đình bị hại cũng có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm áp dụng khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm: Tuy gia đình bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Đỗ Văn T, nhưng mức án mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử cho bị cáo là tương xứng với tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của bị cáo T và giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Đỗ Văn T đã thừa nhận hành vi phạm tội của bị cáo như bản án sơ thẩm đã nêu; qua lời khai nhận của bị cáo và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử phúc thẩm có đủ cơ sở để xác định như sau:

[1.1] Bị cáo Đỗ Văn T và bị hại Nguyễn Thị O là vợ chồng. Trong cuộc sống gia đình hàng ngày có nhiều mâu thuẫn. Chị O đã cùng các con từ Vĩnh Phúc đi vào thị xã M, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu sinh sống. Sau đó, T tìm được địa chỉ nhà của chị O và xin hàn gắn gia đình. Quá trình chung sống, cuộc sống vợ chồng vẫn không hòa hợp, luôn mâu thuẫn. Đến khoảng 01 giờ sáng ngày 27/7/2019, T và chị O tiếp tục cãi nhau. Khi đó, bị cáo T dùng con dao bầu bằng kim loại dài khoảng 30 cm, lưỡi dao bằng kim loại sắc, nhọn dài khoảng 18 cm, chỗ rộng nhất của lưỡi dao khoảng 08 cm, cán bằng gỗ màu đen dài khoảng 12 cm, tay trái cặp cổ chị O dẫn ra bãi cát cạnh đó rồi đâm nhiều nhát theo hướng từ trên xuống dưới trúng vào vùng lưng và cổ của chị O làm nạn nhân tử vong tại hiện trường.

[1.2] Với hành vi nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Đỗ Văn T phạm tội “Giết người” theo quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[2] Xét thấy, hành vi của bị cáo T là đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, thể hiện tính côn đồ, coi thường pháp luật. Chỉ vì mâu thuẫn nhỏ nhặt trong cuộc sống gia đình, bị cáo lại tước đoạt tính mạng của vợ mình, gây đau thương, mất mát cho bản thân các con của bị cáo, làm ảnh hưởng đến tình hình trật tự, an ninh xã hội tại địa phương; vì vậy cần phải xử lý nghiêm mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[3] Tuy nhiên, khi lượng hình, Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng tình tiết giảm nhẹ “Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), từ đó, xử phạt bị cáo Đỗ Văn T mức án 20 năm tù là phù hợp với quy định của pháp luật. Mặc dù, tại cấp phúc thẩm, gia đình bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo T, nhưng tình tiết này không làm thay đổi đáng kể tính chất và mức độ nguy hiểm và hậu quả mà hành vi phạm tội của bị cáo gây ra. Vì vậy, Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo cũng như đề nghị của người bào chữa, và giữ nguyên bản án sơ thẩm như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh là có căn cứ chấp nhận.

[4] Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị phát sinh hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[5] Án phí hình sự phúc thẩm: bị cáo Đỗ Văn T phải chịu theo quy định pháp luật về án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Đỗ Văn T. Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số: 11/2020/HSST ngày 03-3-2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.

[1] Tuyên bố bị cáo Đỗ Văn T phạm tội “Giết người”.

Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ Luật hình sự.

Xử phạt: Đỗ Văn T 20 (hai mươi) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 06/8/2019. Tiếp tục giam bị cáo Đỗ Văn T để đảm bảo thi hành án.

[2] Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị phát sinh hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[3] Án phí hình sự phúc thẩm: bị cáo Đỗ Văn T phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

40
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội giết người số 394/2020/HS-PT

Số hiệu:394/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về