Bản án về tội giết người số 38/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH THỪA THIÊN HUẾ

BẢN ÁN 38/2021/HS-ST NGÀY 21/06/2021 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Ngày 21 tháng 6 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế, số 11 Tôn Đức Thắng, thành phố Huế, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 15/2021/TLST-HS ngày 04 tháng 02 năm 2021. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 75/2021/QĐXXST-HS ngày 22 tháng 4 năm 2021, đối với bị cáo:

Nguyn Anh V (tên gọi khác: Z), sinh ngày 13 tháng 7 năm 1995 tại Thừa Thiên Huế; nơi cư trú: 01/4 kiệt 64 đường X, phường Thuận L, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế; nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 7/12; Dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn B và bà Nguyễn Thị Khánh T1; vợ, con: Chưa; Tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Năm 2009 và 2011, có hành vi gây rối trật tự công cộng và đánh người bị Công an phường Thuận L xử phạt cảnh cáo. Năm 2012, phạm tội: “Cố ý gây thương tích” bị Tòa án nhân dân thành phố Huế xử phạt 03 năm tù.

Bị cáo bị tạm giam ngày 18/7/2020 tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thừa Thiên Huế cho đến nay - Có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Anh V (do mẹ của bị cáo yêu cầu): Bà Lê Thị Trà M - Luật sư Công ty luật Hợp danh Thiên H, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Thừa Thiên Huế. Có mặt.

- Bị hại: Anh Lê T, sinh năm 1990. Nơi cư trú: 1/7 kiệt 64 đường X, phường Thuận L, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Vắng mặt.

- Người đại diện hợp pháp cho người bị hại:Ông Lê Văn Q, sinh năm 1964 (cha ruột của anh T). Nơi cư trú: 1/7 kiệt 64 đường X, phường Thuận L, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Có mặt.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

1. Chị Nguyễn Thị Khánh T1, sinh năm 1975. Nơi cư trú: 192 Bùi Thị X, phường Phường Đ, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Có mặt.

2. Ông Lê Văn Q, sinh năm 1964. Nơi cư trú: 1/7 kiệt 64 đường X, phường Thuận L, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Có mặt.

- Người làm chứng:

1. Anh Nguyễn Đắc T2, sinh năm 1965. Nơi cư trú: 211 Nhật L, phường Thuận L, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Có mặt.

2. Anh Trần Sĩ T3, sinh năm 1972. Nơi cư trú: 62 X, phường Thuận L, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Có mặt.

3. Ông Nguyễn Đình N, sinh năm 1961. Nơi cư trú: 142 Ngô Đức K, phường Thuận L, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ ngày 31/3/2020, Nguyễn Anh V đi bộ đến ngã 3 của kiệt 64, X, phường Thuận L, thành phố Huế thì gặp Lê T. Hai bên xảy ra mâu thuẫn, gây gổ đánh nhau. Do V bị T đấm 01 cái vào mặt nên bỏ đi đến đường Ngô Đức K mua 01 con dao Thái Lan dài khoảng 15 cm, quay lại giao lộ X và Nhật L đánh nhau với T. V cầm dao, T đang cầm cây panh y tế xông vào đánh nhau quyết liệt. V dùng dao đâm 01 nhát trúng vào sườn trái T rồi bỏ chạy. T đuổi theo đến gần hiệu ảnh Minh H thì bị V đâm thêm 01 nhát vào ngực trái. Thấy T máu chảy nhiều, V chạy về nhà ông Nguyễn Đình N ở 142 Ngô Đức K, phường Thuận L, thành phố Huế ném dao xuống hồ nước rồi nhờ ông N chở đến Công an phường Thuận L tự thú. T bị thương nằm bất tỉnh ở đường, được gia đình và mọi người đưa đi bệnh viện Trung ương Huế cấp cứu.

Kết luận giám định pháp y thương tích của Thắng như sau:

1. Dấu hiệu chính qua giám định:

Vết thương phần mền vùng gian sườn III ngực trái: 1%.

Vết thương ngực rách cực dưới phổi trái đã phẫu thuật: 6%.

Thủng thất phải đã phẫu thuật khâu tim: 51%. Tỷ lệ tổn thất sức khỏe: 54 %.

2. Cơ chế hình thành thương tích:

Qua hồ sơ bệnh án điều trị thể hiện nạn nhân có 02 vết thương ở vùng ngực trái:

trái.

Vết thương phần mền vùng gian sườn III do vật sắc nhọn gây nên.

Vết thương thủng tim và phổi do vật sắc nhọn tác động vào vùng dưới vú Ngày 20/01/2021, Trung tâm Pháp y tâm thần khu vực miền Trung tại tỉnh Thừa Thiên Huế có Kết luận giám định pháp y tâm thần số: 78/KLGĐ đối với bị cáo V như sau:

1. Trước thời điểm gây án:

a/ Về mặt y học: Rối loạn loạn thần trong rối loạn tâm thần và hành vi do sử dụng nhiều loại ma túy, trạng thái hỗn loạn (F19.56).

b/ Về khả năng nhận thức và khả năng điều hành hành vi: Hạn chế khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi.

2. Tại thời điểm gây án:

a/ Về y học: Rối loạn loạn thần trong rối loạn tâm thần và hành vi do sử dụng nhiều loại ma túy, trạng thái hỗn hợp (F19.56).

b/ Về khả năng nhận thức và khả năng điều hành hành vi: Hạn chế khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi.

3. Thời điểm hiện tại:

a/ Về y học: Trạng thái loạn thần di chứng do sử dụng nhiều loại ma túy (F19.7).

Đối tượng cần được điều trị ngoại trú liên tục và cách ly ma túy.

b/ Về khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi: Hạn chế khả năng nhận thức và hạn chế khả năng điều khiển hành vi.

- Vật chứng:

+ 01 đĩa CD-R NEO màu vàng cam, trên mặt đĩa có chữ màu trắng ghi “VỤ NGUYỄN ANH VŨ 31/3/20 tại Thuận Lộc, TP Huế”.

+ 01 cái panh y tế bằng kim loại.

- Về dân sự: Gia đình bị cáo đã lo chi phí tiền viện phí nên gia đình bị hại không yêu cầu bị cáo bồi thường thêm và có đơn không yêu cầu khởi tố.

Tại bản cáo trạng số 11/CT-VKS-P2 ngày 04/02/2021, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế đã truy tố bị cáo Nguyễn Anh V về tội “Giết người” theo quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế giữ nguyên quan điểm của cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; Điểm b, q, r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54; Điều 57 của Bộ luật hình sự đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Anh V từ 07 năm đến 07 năm 06 tháng tù.

- Về xử lý vật chứng trong vụ án: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự đề nghị tiếp tục lưu trong hồ sơ vụ án 01 đĩa CD-R NEO; tịch thu tiêu hủy 01 cái panh y tế mà Cơ quan điều tra đã thu giữ trong quá trình điều tra vụ án.

- Về trách nhiệm dân sự: Không ai có yêu cầu nên không xem xét.

Bị cáo nhận tội, ăn năn hối cải về hành vi của mình và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

Luật sư bào chữa cho bị cáo: Nguyên nhân xảy ra vụ án là do người bị hại bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, có hành vi đánh bị cáo trước dẫn đến bị cáo bức xúc và có hành vi phạm tội. Đồng thời, bị cáo là người bị hạn chế năng lực hành vi và có nhiều tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 của Bộ luật hình sự như Viện kiểm sát đề nghị, do đó đề nghị Hội đồng xét xử gỉảm nhẹ hình phạt cho bị cáo thấp nhất có thể.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm sát viên: Trong quá trình thực hiện điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại, người làm chứng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2]. Đã có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 10 giờ ngày 31/3/2020, tại ngã 3 của kiệt 64, X, phường Thuận L, thành phố Huế, do có mâu thuẫn với nhau nên Nguyễn Anh V dùng dao Thái Lan dài khoảng 15cm còn Lê T dùng panh y tế bằng kim loại để xâu ẩu đánh nhau. Trong quá trình đánh nhau, V đã dùng dao đâm Lê T nhiều nhát làm thủng tim, thủng phổi trái, gây gây tổn thương cơ thể 54% . Hành vi của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến sức khỏe, tính mạng của người khác được pháp luật bảo vệ. Mặc dù, bị cáo không có ý định tước đoạt tính mạng của người khác, nhưng chỉ vì mâu thuẫn nhỏ với người bị hại mà bị cáo dùng dao đâm vào tim, phổi của anh T, đây là vùng trọng yếu của con người buộc bị cáo phải biết có khả năng dẫn đến chết người, nên đã đủ yếu tố cấu thành tội “Giết người” với tình tiết định khung “Có tính chất côn đồ”. Do đó, Cáo trạng số 11/CT-VKS-P2 ngày 04/02/2021 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế truy tố các bị cáo Nguyễn Anh V về tội “Giết người” quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự là có căn cứ đúng pháp luật.

[3]. Xét về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo thấy rằng: Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, biết được tính mạng, sức khỏe của người khác là vốn quý, được pháp luật bảo vệ, nếu xâm phạm sẽ bị pháp luật trừng trị nghiêm khắc nhưng chỉ vì mâu thuẫn nhỏ với người bị hại, mà bị cáo đã dùng dao là hung khí nguy hiểm tấn công bị hại dẫn đến việc phạm tội. Vì vậy, cần phải xử lý nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi của bị cáo mới có tác dụng giáo dục, phòng ngừa tội phạm.

[4] Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Về nhân thân: Mặc dù bị cáo không có tiền án tiền sự, nhưng nhân thân của bị cáo xấu đã từng bị xử phạt 03 năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”.

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phạm vào tình tiết tăng nặng nào.

Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo đã tác động gia đình bồi thường chi phí điều trị cho bị hại, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, khi phạm tội bị cáo là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức và hạn chế khả năng điều khiển hành vi, đồng thời sau khi gây án khi chưa bị ai phát hiện, bị cáo đã tự đến cơ quan công an để khai báo là tự thú về hành vi của mình, đây là những tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, q, r, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Ngoài ra, trong vụ án này người bị hại cũng bị hạn chế khả năng nhận thức và hạn chế khả năng điều khiển hành vi, đại diện hợp pháp của người bị hại bãi nại xin giảm nhẹ hình pht cho bị cáo, nên bị cáo được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[5] Về biện pháp chấp hành hình phạt: Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, do đó căn cứ Điều 38 của Bộ luật Hình sự để cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian nhằm giáo dục bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung. Tuy nhiên, bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự nên áp dụng khoản 1 Điều 54 của Bộ luật Hình sự để quyết định mức hình phạt thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng và gần với khởi điểm của khung hình phạt liền kề. Ngoài ra, thương tích mà bị cáo gây ra cho anh Lê T với tỷ lệ tổn thương cơ thể 54% nên thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt theo quy định tại Điều 15 của Bộ luật hình sự, do đó căn cứ khoản 3 Điều 57 của Bộ luật hình sự để quyết định mức hình phạt đối với bị cáo.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Không ai yêu cầu bồi thường gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật hình sự và Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự để xử lý như sau:

+ Đối với 01 đĩa CD-R NEO màu vàng cam, trên mặt đĩa có chữ màu trắng ghi “VỤ NGUYỄN ANH V 31/3/20 tại Thuận L, TP Huế” đang lưu trữ trong hồ sơ vụ án nên cần tiếp tục lưu trong hồ sơ vụ án để phục vụ công tác xét xử.

+ Đối với 01 cái panh y tế bằng kim loại không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

[8] Về án phí: Buộc bị cáo Nguyễn Anh V phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, q, r, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 38; Điều 15; khoản 3 Điều 57 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: bị cáo Nguyễn Anh V 06 (sáu) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Giết người”. Thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày bắt tạm giam 18/7/2020.

- Về trách nhiệm dân sự: Không ai có yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.

- Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự và Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự tuyên xử:

Tiếp tục lưu trong hồ sơ vụ án 01 đĩa CD-R NEO màu vàng cam, trên mặt đĩa có chữ màu trắng ghi “VỤ NGUYỄN ANH V 31/3/20 tại Thuận L, TP Huế”.

Tich thu tiêu hủy 01 cái panh y tế bằng kim loại .

(Toàn bộ số tang vật trên theo Quyết định chuyển vật chứng số 07/QĐ-VKS- P2 ngày 04/02/2021 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế)

- Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Nguyễn Anh V phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Án sơ thẩm xét xử công khai, báo cho bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

467
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội giết người số 38/2021/HS-ST

Số hiệu:38/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thừa Thiên Huế
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về