Bản án về tội giết người số 348/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 348/2022/HS-ST NGÀY 02/08/2022 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Ngày 02/8/2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố H xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 463/2022/TLST-HS, ngày 24/6/2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 3928/2022/QĐXXST-HS ngày 19 tháng 7 năm 2022, đối với bị cáo:

Vũ Đức S, sinh năm 1968 tại Thành phố H; Giới tính: Nam; Thường trú: ấp A, xã TTD, huyện M, Thành phố H; nghề nghiệp: công nhân; Trình độ học vấn: 4/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Vũ Đức T (chết) và bà Lê Thị X (chết); hoàn cảnh gia đình: Có vợ là Nguyễn Ngọc M (đã ly hôn) và 03 con chung (lớn nhất sinh năm 1990, nhỏ nhất sinh năm 1995); Tiền án, tiền sự: không;

Bị cáo bị bắt giam từ ngày 13/5/2021 (có mặt).

Ngưi bào chữa cho bị cáo Vũ Đức S: Ông Nguyễn Trung C, Luật sư của Văn phòng Luật sư TN thuộc Đoàn Luật sư Thành phố H (có mặt).

Bị hại: Ông Tô Văn T, sinh năm 1971 (có mặt).

Thường trú: Ấp PM, xã PL, huyện CT, tỉnh Đồng Tháp Tạm trú: ấp D, xã TTD, huyện C, Thành phố H.

Ngưi có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Châu D (vắng mặt).

Địa chỉ: ấp Tân Thuận, xã Tân Lợi, huyện Tinh Biên, tỉnh A.

Ngưi làm chứng: Bà Nguyễn Ngọc M, sinh năm 1970 (có mặt).

Địa chỉ: ấp D, xã TTD, huyện C, Thành phố H

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vũ Đức S kết hôn với bà Nguyễn Ngọc M (sinh năm 1970), có 03 con chung. Đến năm 2001, cả hai ly hôn, đến năm 2006 bà M chung sống như vợ chồng với ông T (sinh năm 1971).

Khoảng 18 giờ ngày 12/5/2021, Vũ Đức S đi xe mô tô gắn máy màu đỏ, biển số 67N7-xxxx đến nhà bà M tại số ấp D, xã TTD, huyện C, Thành phố H để thăm các cháu ngoại của S đang sống chung với bà M và ông T. Khi đến nơi, S gọi các cháu của mình ra ngoài sân chơi. Ông T lúc này mới đi uống rượu về nhà, dựng xe đạp trước sân và hỏi S “Đ.M mày xuống đây quậy hả”. S trả lời “Mày nói tao vậy là tao không chịu, tao xuống thăm cháu tao”. Sau đó giữa ông T và S xảy ra cãi nhau. Ông T rút dây thắt lưng đang đeo trên người đánh S 02 cái, làm S ngã, S đứng dậy đi tới xe mô tô biển số 67N7-xxxx lấy 01 con dao xếp dài khoảng 25,5 cm, lưỡi dao dài 11 cm, bản lưỡi chỗ rộng nhất 2cm rồi quay lại đứng đối diện ông T, cách ông T khoảng 03 bước chân. S mở lưỡi dao ra cầm trên tay phải, mũi dao hướng lên trên chĩa về ông T và đe dọa “Máy đánh tao hai cái, mày đánh nữa tao không nhịn mày nữa đâu”. Ông T nói “Tao đánh mày nữa chứ tao xạo mày hà”. Sau đó, ông T tiếp tục cầm dây thắt lưng đánh thêm 01 cái trúng vào bên hông trái S (không gây thương tích). S bước thêm 01 bước và cầm dao đâm trúng vào ngực bên trái ông T rồi rút dao ra. Ông T bị đâm chảy nhiều máu, dùng tay che miệng vết thương rồi đi qua bên hông nhà ngồi và được gia đình đưa đi cấp cứu.

Sau khi đâm ông T, S bỏ lại lại xe mô tô biển số 67N7-xxxx tại hiện trường rồi cầm con dao vừa gây án đi bộ về nhà cách đó khoảng 100m và để con dao trước thềm nhà. Sau đó, S điện thoại cho Công an xã Tân Thạnh Đông, huyện Củ Chi trình bày sự việc và giao nộp con dao gây án.

Tại Cơ quan điều tra, S đã khai nhận hành vi phạm tội như nội dung nêu trên. Ngày 30/11/2021, Trung tâm pháp y Thành phố H có Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 794/TgT.21 đối với ông T, phần kết luận như sau:

1. Dấu hiệu chính qua giám định: Vết thương thấu ngực trái gây thủng tâm thất phải, thủng đáy thùy trên phổi trái đã được điều trị mổ thám sát, khâu vết thương tim, khâu phổi, đặt dẫn lưu, khâu dạ, hiện còn:

- Một sẹo đâm dưới vú trái kích thước 2,6 x (0,1-0,2)cm.

- Một sẹo mổ giữa ngực và ngang vú trái kích thước 20 x (0,1-0,4)cm.

- Một sẹo dẫn lưu thành bên ngực trái kích thước 1,9 x (0,1-0,2)cm.

- Hình ảnh xơ hẹp một phần thùy trên phổi trái và dày dính màng phổi trên phim chụp cắt lớp vi tính.

2. Theo Thông tư số 22/2019/TT-BYT ngày 28/8/2019 của Bộ Y tế quy định tỉ lệ tổn thương cơ thể sử dụng trong giám định pháp y, giám định tâm thần: Tỉ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là: 62% (sáu mươi hai phần trăm).

3. Kết luận khác:

Thương tích trên do vật sắc hoặc vật sắc nhọn tác động gây ra.

Con dao dạng xếp như bản ảnh quý cơ quan cung cấp gây ra được vết thương thấu ngực trái.

Vật chứng thu giữ: 01 con dao dạng dao xếp bằng kim loại đã bị rỉ sét dài 25,5 cm, lưỡi dao dài 11cm, bản lưỡi chỗ rộng nhất 2cm, 01 dây thắt lưng màu nâu, có mặt dây bằng kim loại đã bị đứt rời, 01 chiếc xe hai bánh gắn máy, nhãn hiệu FANLIM, số loại C110; dung tích xilanh 108; Biển số 67N7-xxxx; SK: RRKWCHHUM7X039819; SM: VTTJL1P52FMH-039819.

Về dân sự: Ông T không yêu cầu bồi thường tổn hại về sức khỏe do hành vi của Vũ Đức S gây ra. Ngoài ra, vào ngày 18/11/2021, ông T đã nộp đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho Vũ Đức S.

Tại Bản cáo trạng số 79/CT-VKS-P2 ngày 14/02/2022 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố H truy tố bị cáo Vũ Đức S tội “Giết người” theo khoản 2 Điều 123 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như cáo trạng đã truy tố.

Bị hại ông T không yêu cầu bồi thường tổn hại về sức khỏe, ngoài ra ông xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố H giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo. Sau khi tóm tắt nội dung vụ án, phân tích, đánh giá những chứng cứ xác định hành vi phạm tội, tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội, hậu quả gây ra, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 2 Điều 123; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Vũ Đức S 07 năm đến 08 năm tù về tội “Giết người”.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị tịch thu tiêu hủy 01 con dao dạng dao xếp bằng kim loại đã bị rỉ sét dài 25,5 cm, lưỡi dao dài 11cm, bản lưỡi chỗ rộng nhất 2cm và 01 dây thắt lưng màu nâu, có mặt dây bằng kim loại đã bị đứt rời. Về chiếc xe hai bánh gắn máy biển số 67N7-xxxx: Đăng thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng tìm chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp đối với chiếc xe trên, hết thời hạn thông báo mà không tìm được chủ sở hữu, giao trả lại cho bị cáo Vũ Đức S.

Luật sư Nguyễn Trung C bào chữa cho bị cáo trình bày: Đồng ý với quan điểm truy tố của Viện kiểm sát đối với bị cáo Vũ Đức S về tội danh và khung hình phạt, tuy nhiên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo vì sau khi phạm tội, bị cáo đầu thú, mặt khác một phần lỗi do bị hại gây ra, sau đó bị hại có đơn bãi nại cho bị cáo.

Viện kiểm sát nhân dân Thành phố H giữ nguyên quan điểm truy tố.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận. Lời nói sau cùng, bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, người bào chữa, bị cáo, bị hại, người làm chứng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an Thành phố H, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố H, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Quá trình điều và tại phiên tòa, bị cáo Vũ Đức S không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Căn cứ lời khai của bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, Kết luận giám định pháp y về thương tích, vật chứng cùng các tài liệu, chứng cứ khác đã được Cơ quan điều tra thu thập trong hồ sơ vụ án đã có cơ sở xác định:

Vào ngày 12/5/2021, bị cáo Vũ Đức S đến nhà bà Nguyễn Ngọc M (vợ cũ) tại số 45/2B Đặng Thị Thưa, ấp 4, xã Tân Thạnh Đông, huyện Củ Chi để thăm các cháu của mình thì mâu thuẫn với ông T (người sống chung như vợ chồng với bà M). Ông T đã dùng dây thắt lưng (đang đeo trên người) đánh S 02 cái, làm bị cáo ngã. Bị cáo lấy dao xếp hướng về phía ông T đe dọa nhưng ông T tiếp tục cầm dây thắt lưng đánh thêm 01 cái trúng vào bên hông trái của bị cáo (không gây thương tích). Sau đó, bị cáo cầm dao đâm trúng vào ngực bên trái ông T rồi rút dao ra. Ông T chảy nhiều máu và được mọi người đưa đi cấp cứu. Theo Kết luận giám định pháp y về thương tích thì tỉ lệ tổn thương cơ thể là 62%.

Bị hại là người gây hấn trước, dùng thắt lưng đánh bị cáo 03 cái nhưng không gây thương tích. Tuy nhiên, bị cáo đã dùng dao đâm vào vùng ngực là vùng trọng yếu trên cơ thể của bị hại, bị hại không chết nằm ngoài ý muốn của bị cáo. Do vậy, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố H truy tố bị cáo về tội “Giết người” theo khoản 2 Điều 123 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có cơ sở, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến tính mạng của người khác được pháp luật bảo vệ. Bị cáo là người đã thành niên, có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, chỉ vì mâu thuẫn nhỏ trong cuộc sống mà bị cáo S đã có hành vi đâm bị hại gây thương tích với tỉ lệ tổn thương cơ thể là 62%, do vậy, cần xử phạt bị cáo mức hình phạt nghiêm khắc để răn đe bị cáo và phòng ngừa cho xã hội.

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Xét bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, chưa có tiền án, tiền sự, nhân thân tốt, bị cáo đã ra đầu thú và bị hại đã có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, nên cần xem xét áp dụng cho bị cáo các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[3] Về trách nhiệm dân sự: Ông T không yêu cầu bồi thường nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Về xử lý vật chứng:

- Đối với 01 con dao dạng dao xếp bằng kim loại đã bị rỉ sét dài 25,5 cm, lưỡi dao dài 11cm, bản lưỡi chỗ rộng nhất 2cm, được niêm phong trong phong bì màu trắng bên ngoài có hình dấu của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố H, mã số NP/443BB/2022; 01 dây thắt lưng màu nâu, có mặt dây bằng kim loại đã bị đứt rời, mã số DAY/443BB/2022, là vật chứng không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 chiếc xe hai bánh gắn máy; nhãn hiệu: FANLIM, Số loại C110; Dung tích xilanh 108; biển số 67N7-xxxx; số khung RRKWCHHUM7X039819; số máy VTTJL1P52FMH-039819 (số mờ, rỉ sét, không gương, bể nát, không mặt nạ, bửng, xe cũ rỉ sét, máy móc bên trong không kiểm tra), do ông Châu D là chủ sở hữu. Qua xác minh, ông Châu D không có mặt tại địa phương. Bị cáo Vũ Đức S khai đã mua chiếc xe trên bằng giấy tay, chưa chuyển tên sở hữu. Do chưa xác định được chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp, nên cần đăng thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng tìm chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp đối với chiếc xe trên, hết thời hạn thông báo mà không tìm được chủ sở hữu, giao trả lại cho bị cáo Vũ Đức S do chiếc xe trên không liên quan đến hành vi phạm tội.

[5] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (hai trăm nghìn) đồng.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 123; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017):

Xử phạt bị cáo Vũ Đức S 07 (bảy) năm tù về tội “Giết người”. Thời hạn tù tính từ ngày 13/5/2021.

Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) con dao dạng dao xếp bằng kim loại đã bị rỉ sét dài 25,5 cm, lưỡi dao dài 11cm, bản lưỡi chỗ rộng nhất 2cm, được niêm phong trong phong bì màu trắng bên ngoài có hình dấu của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố H, mã số NP/443BB/2022; 01 (một) dây thắt lưng màu nâu, có mặt dây bằng kim loại đã bị đứt rời, mã số DAY/443BB/2022.

- Giao Cục Thi hành án Dân sự Thành phố H đăng thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng trong thời hạn 03 tháng theo quy định của pháp luật để tìm chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp 01 (một) chiếc xe hai bánh gắn máy; Nhãn hiệu: FANLIM, Số loại C110; Dung tích xilanh 108; BS: 67N7-xxxx; SK: RRKWCHHUM7X039819; SM: VTTJL1P52FMH-039819 (số mờ, rỉ sét) (không gương, bể nát, không mặt nạ, bửng, xe cũ rỉ sét, máy móc bên trong không kiểm tra), mã số XMAY/443BB/2022. Hết thời hạn nêu trên, nếu không xác định được chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp thì giao trả chiếc xe trên cho bị cáo Vũ Đức S.

(Theo Biên bản giao nhận tang tài vật số NK2022/443 ngày 15/6/2022 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố H).

Bị cáo phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, bị hại có mặt được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày tính kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

22
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội giết người số 348/2022/HS-ST

Số hiệu:348/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 02/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về